Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón số 290/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 290/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ PHÂN BÓN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 294/2022/HSST, ngày 26 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 305/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 152/2022/HSST- QĐ ngày 19 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Q, sinh năm 1981.

HKTT: Số 35/140 L, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.; Nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trọng S, sinh năm 1928 và bà Đỗ Thị T (Đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị Bích H; Có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 17/6/2022 đến ngày 18/7/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giam và được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

2. Lê Hưng L, sinh năm 1984 HKTT: Số 11F Nguyễn Văn S, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp:

Nhân viên kỹ thuật; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Khắc H, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị M (Đã chết); Có vợ là Lê Thị H; Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018;

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 17/6/2022 đến ngày 18/7/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giam và được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

3. Lê Thế H, sinh năm 1993 HKTT: Số nhà 1373 An Dương V, phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Nhân viên kỹ thuật; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Thế Á, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T (Đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị Kim T; Có 02 con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/6/2022 cho đến nay.

Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/5/2022, Công an thành phố H, tỉnh Thanh Hóa thi hành Quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính số 4480/QĐ-KNCG ngày 16/5/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thanh Hóa đối với Công ty cổ phần phân bón S; Người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Văn Q - Giám đốc công ty. Công ty cổ phần phân bón S được sản xuất và buôn bán phân bón theo quyết định về việc công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam số 1461-QĐ-BVTV- PB ngày 14/9/2018 của Cục Bảo vệ thực vật - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Kết quả: Công an thành phố Thanh Hóa đã tạm giữ 1.797 bao sản phẩm phân bón hiệu VRAT NK 16-12+18S (ký hiệu S1, S1A, S1B), mỗi bao 20 kg, tổng cộng 35.940 kg. Ngoài ra, quá trình khám theo thủ tục hành chính, cơ quan công an đã thu thập 09 mẫu phân bón do Công ty cổ phần phân bón Sông Mã sản xuất nghi kém chất lượng để kiểm nghiệm chất lượng hàm lượng và xử lý theo quy định pháp luật. Gồm: Sản phẩm VRAT Trùn quế NK 15-12+6S (đỏ), ký hiệu S2; VRAT Trùn quế NK 15-12+6S (xanh), ký hiệu S3; VRAT Trùn quế NPK 12-3-10, ký hiệu S4; VRAT Trùn quế NPK 8-7-3, ký hiệu S5; VRAT chuyên lót SL01, ký hiệu S6; Lúa 2 VRAT NK12-10, ký hiệu S7; VRAT NK12-10 chuyên thúc, ký hiệu S8; VRAT NK 12- 8+6S, ký hiệu S9 và phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc đề ngày sản xuất 05/3/2022 ký hiệu S10.

Căn cứ vào kết quả kiểm nghiệm và tài liệu thu thập được đến ngày 31/5/2022 cơ quan điều tra đã tạm giữ các sản phẩm phân bón Hoa nông chuyên thúc (mỗi bao 25 kg) do Công ty cổ phần phân bón Sông Mã sản xuất đề các ngày:

- Ngày sản xuất 04/3/2022: 141 bao, mẫu kiểm nghiệm ký hiệu S11;

- Ngày sản xuất 05/3/2022: 295 bao, mẫu kiểm nghiệm ký hiệu S12;

- Ngày sản xuất 26/5/2022: 678 bao, mẫu kiểm nghiệm ký hiệu S13;

- Ngày sản xuất 27/5/2022: 357 bao, mẫu kiểm nghiệm ký hiệu S14;

- Ngày sản xuất 30/5/2022: 297 bao, mẫu kiểm nghiệm ký hiệu S15.

Đến ngày 10/6/2022 Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ các sản phẩm phân bón Hoa nông chuyên thúc (mỗi bao 25 kg) gồm: Ngày sản xuất 04/3/2022: 41 bao; Ngày sản xuất 26/5/2022: 95 bao; Ngày sản xuất 27/5/2022: 12 bao.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L, Lê Thế H khai nhận: Do nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc lớn, nên ngày 01/3/2022, Nguyễn Văn Q đã lập định mức sản xuất với lô phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc để sản xuất ra 30.000 kg thành phẩm. Tuy nhiên, do nguyên liệu đầu vào là Natri Silicat (Na2SiO3) để tạo ra Silic hữu hiệu (SiO2hh là chất cây trồng có thể hấp thụ được) khan hiếm và giá thành tăng cao nên Nguyễn Văn Quy đã xây dựng định mức vật tư sản xuất sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc không đạt tiêu chuẩn như đã công bố là Magie (Mg): 5%, Silic hữu hiệu (SiO2hh): 10% và Lưu huỳnh (S): 5%.

Sau đó, Nguyễn Văn Q đã chuyển định mức này cho Lê Hưng L là Trưởng phòng quản lý chất lượng để sản xuất. Sau khi nhận định mức vật tư sản xuất lô sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc, L nhận thấy với định mức vật tư như trên thì không thể tạo ra sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc đạt chất lượng như Công ty đã công bố và báo cáo lại với Q nhưng Q vẫn chỉ đạo Lê Hưng L sản xuất 30.000 kg. Do đó, Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L chuyển định mức vật tư trên cho Lê Thế H là nhân viên phòng quản lý chất lượng để tiến hành sản xuất. Khi nhận được định mức vật tư do Q lập ngày 01/3/2022, H đã trao đổi lại với L về việc với định mức trên thì sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc tạo ra sẽ không đạt chất lượng như Công ty đã công bố. Tuy nhiên, do Nguyễn Văn Q - Giám đốc công ty đã chỉ đạo nên Lê Hưng L và Lê Thế H vẫn tiến hành sản xuất sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc theo định mức vật tư do Q lập ngày 01/3/2022. Quá trình sản xuất diễn ra liên tục, không bị gián đoạn. Kết quả, đã sản xuất được 30.000 kg phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc. Cụ thể: sản xuất ngày 04/3/2022: 15.000 kg, sản xuất ngày 05/3/2022: 15000 kg. Đồng thời, do biết sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc sản xuất ra không đạt tiêu chuẩn chất lượng như đã công bố nên Nguyễn Văn Q đã chỉ đạo Lê Hưng L không lấy mẫu đi kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm. Sản phẩm phân bón Trung lượng hoa nông chuyên thúc sau khi sản xuất bán 19.100 kg cho khách hàng (gồm các đại lý và khách mua lẻ), còn lại 10.900 kg đã bị cơ quan công an tạm giữ. Các khách hàng gồm:

1. Anh Nguyễn Đức H, địa chỉ 886 N, phường P, thành phố Thanh Hóa 3.000 kg, với giá 4.000 đồng/01kg (giá bán 3.500 đồng/kilôgam, công vận chuyển bốc dỡ 500 đồng/kg), sau khi mua đã bán hết cho khách mua lẻ;

2. Bà Nguyễn Thị L, địa chỉ Phố K, xã Y, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa 11.200 kg, với giá 3.500 đồng/01kg, sau khi mua đã bán hết cho khách mua lẻ;

3. Chị Hách Thị Giang, địa chỉ xã Định Tăng, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa 3.000 kg, với giá 3.500 đồng/01kg, tuy nhiên sau khi cơ quan công an thu mẫu kiểm nghiệm, Nguyễn Văn Q đã thu hồi về 118 bao tương ứng với 2.950 kg cất tại kho của công ty, sau đó bóc một số bao tái chế, còn lại 41 bao, tương đương 1.025 kg đã giao nộp cho Cơ quan điều tra.

4. Ông Dương Đình T, địa chỉ Thôn D, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An 1.000 kg, với giá 3.500 đồng/01kg, sau khi mua đã bán hết cho khách mua lẻ.

5. Bán cho khách lẻ không rõ thông tin, địa chỉ ở đâu 900 kg, với giá 4.000 đồng/01 kg.

Ngày 18/6/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã tiến hành khám xét nơi làm việc của Nguyễn Văn Q tại trụ sở Công ty cổ phần phân bón S nhưng không thu giữ được gì.

Tại kết luận giám định số 3221/KL-KTHS ngày 21/5/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: các mẫu hạt ghi ký hiệu S1 gửi giám định có hàm lượng Đạm tổng số (Nts): 13,5%, Kali hữu hiệu (K2Ohh): 10,7 và Lưu huỳnh tổng số (S): 7,38%; Mẫu hạt ghi ký hiệu S1A có hàm lượng Đạm tổng số (Nts): 13,5%, Kali hữu hiệu (K2Ohh): 11,5% và Lưu huỳnh tổng số (S): 7,66%; (K2Ohh): Các mẫu hạt ghi ký hiệu S1B gửi giám định có hàm lượng Đạm tổng số (Nts): 13,5%, Kali hữu hiệu (K2Ohh): 10,7 và Lưu huỳnh tổng số (S): 7,7%.

Tại kết luận giám định số 3567/KL-KTHS ngày 15/6/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: các mẫu hạt ghi ký hiệu S10 gửi giám định có hàm lượng Magie (Mg): 8,09%, Silic hữu hiệu (SiO2hh): không phát hiện và Lưu huỳnh (S): 2,38%.

Tại kết luận giám định số 3736/KL-KTHS ngày 20/6/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: các mẫu hạt ghi ký hiệu S11 gửi giám định có hàm lượng Magie (Mg): 7,32%, Silic hữu hiệu (SiO2hh): không phát hiện và Lưu huỳnh (S): 3,80%; Các mẫu hạt ghi ký hiệu S12 gửi giám định có hàm lượng Magie (Mg): 7,07%, Silic hữu hiệu (SiO2hh): không phát hiện và Lưu huỳnh (S): 3,69% .

Tại bản kết luận định giá số 72/KL-HĐĐGTS ngày 15/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố Thanh Hóa, kết luận: 01 kg phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thức có giá trị tại thời điểm sản xuất và thời điểm thu giữ là 3.750 đồng/01 kg.

Ngày 16/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã làm việc với Cục Bảo vệ thực vật- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, xác định: Căn cứ vào kết quả giám định; khoản 2 Điều 8 Nghị định số 84/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019; điểm b khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón QCVN 01-189:2019/BNNPTNT ban hành thì Silic hữu hiệu (SiO2hh): không phát hiện (đạt 0% so với công bố), Lưu huỳnh (S): 3,28% (chỉ đạt 65,6% so với công bố). Như vậy, sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc Magie (Mg): 5%, Silic hữu hiệu (SiO2hh): 10% và Lưu huỳnh (S): 5% do Công ty cổ phần phân bón Sông Mã sản xuất theo lô hàng đã lấy mẫu kiểm nghiệm là hàng giả về chất lượng .

Như vậy, Nguyễn Văn Q là Giám đốc Công ty Cổ phần phân bón S đã chỉ đạo cho Lê Hưng L và Lê Thế H sản xuất 30.000 kg phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc giả về chất lượng, với giá trị 112.500.000 đồng (Một trăm mười hai triệu năm trăm nghìn đồng). Căn cứ vào đơn giá thể hiện trong hóa đơn đã bán cho các khách hàng mua sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc thì Nguyễn Văn Q đã thu lợi bất chính số tiền 1.824.489 đồng (Một triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn bốn trăm tám mươi chín đồng).

Đối với 1.439 bao phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc ghi ngày sản xuất 26/5/2022, 27/5/2022 và 30/5/2022 theo biên bản tạm giữ ngày 31/5/2022. Nguyễn Văn Q trình bày sau khi cơ quan điều tra thu mẫu kiểm nghiệm ngày 17/5/2022, Quy biết rõ sản phẩm phân bón Hoa nông chuyên thúc không đạt chất lượng như công bố nên đã chỉ đạo Lê Hưng L nghiên cứu tăng nguyên liệu đầu vào bột Secpentin và Lân nung chảy nhằm cố tạo ra sản phẩm đạt chất lượng như công bố. Sau khi có kết quả kiểm nghiệm biết lô hàng trên không đạt chất lượng nên Nguyễn Văn Quy không tiến hành kinh doanh mà lưu kho để tái chế sử dụng Do đó, cơ quan điều tra đã quyết định trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là Công ty cổ phần phân bón S, đại diện Công ty là ông Nguyễn Văn Q.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 3221/KL-KTHS ngày 21/5/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an đối với tạm giữ 1797 bao sản phẩm phân bón hiệu VRAT NK 16-12+18S (ký hiệu S1, S1A, S1B), tương đương 35.940 kg; Và kết quả thử nghiệm các mẫu phân bón VRAT Trùn quế NK 15-12+6S (đỏ), ký hiệu S2; VRAT Trùn quế NK 15-12+6S (xanh), ký hiệu S3; VRAT Trùn quế NPK 12-3-10, ký hiệu S4; VRAT Trùn quế NPK 8-7-3, ký hiệu S5; VRAT chuyên lót SL01, ký hiệu S6; Lúa 2 VRAT NK12-10, ký hiệu S7; VRAT NK12-10 chuyên thúc, ký hiệu S8; VRAT NK 12-8+6S, ký hiệu S9. Đối chiếu với quy định tại khoản 7 Điều 2 Nghị định số 84/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 về quản lý phân bón quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng phân bón QCVN 01-189:2019/BNN&PTNT thì các sản phẩm phân bón được thu mẫu từ S1, S1A, S1B, S2,S3, S4, S5, S6, S7, S8, S9 là sản phẩm phân bón có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn đã công bố.

Căn cứ vào lời khai của Nguyễn Văn Q và các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra xác định các sản phẩm phân bón trên sau khi sản xuất, Công ty chưa bán ra thị trường nên Cơ quan điều tra đã quyết định trả lại 1.797 bao phân bón hiệu VRAT NK 16-12+18S (ký hiệu S1, S1A, S1B) và yêu cầu Công ty cổ phần phân bón S tái chế sử dụng đối với các mẫu sản phẩm phân bón trên và báo cáo kết quả kiểm nghiệm đến Công an thành phố Thanh Hóa. Đồng thời, chuyển Công an thành phố Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sản xuất phân bón có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn đã công bố đối với Công ty cổ phần phân bón S.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L và Lê Thế H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với những tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: Đối với 477 bao sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc ghi ngày sản xuất 04/3/2022 và 05//3/2022 còn lại (gồm 436 bao theo biên bản tạm giữ ngày 31/5/2022 và 41 bao theo biên bản tạm giữ ngày 10/6/2022), tương đương 11.925 kg, hiện đang được bảo quản tại Công ty TNHH Liên doanh phân bón H. Toàn bộ vật chứng trên của vụ án, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa để chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với các khách hàng đã mua sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc do Công ty cổ phần phân bón S sản xuất các ngày 04/3/2022 và 05/3/2022 đều không biết chất lượng sản phẩm đã mua và Nguyễn Văn Q cũng không thông báo cho họ biết về việc sản phẩm không đạt chất lượng như công bố. Lời khai của Nguyễn Văn Q phù hợp với lời khai của khách hàng nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với hành vi sản xuất 1.439 bao phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc, tương đương 35.975kg, các ngày sản xuất 26/5/2022, 27/5/2022 và 30/5/2022, do sản phẩm không đạt chất lượng nên Nguyễn Văn Q không tiến hành kinh doanh mà lưu kho để tái chế sử dụng. Lời khai của Nguyễn Văn Q phù hợp với lời khai của Lê Hưng L, Lê Thế H. Do đó, cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Văn Q.

Tại cáo trạng số 237/CT-VKS-TPTH, ngày 23/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L và Lế Thế H về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón” theo điểm a khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào: - Điểm a khoản 1 Điều 195; Điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q.

- Điểm a khoản 1 Điều 195; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Hưng L và Lế Thế H.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L và Lế Thế H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón”, đề nghị xử phạt:

- Nguyễn Văn Q từ 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng) đến 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng).

- Lê Hưng L từ 170.000.000đ (Một trăm bảy mươi triệu đồng) đến 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).

- Lê Thế H từ 130.000.000đ (Một trăm ba mươi triệu đồng) đến 170.000.000đ (Một trăm bảy mươi triệu đồng).

Đề nghị Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.824.489 đồng thu lợi bất chính mà bị cáo Nguyễn Văn Q đã nộp cho cơ quan thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung. Và đề nghị xử lý vật chứng.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận:

Vào ngày 04/3/2022 và ngày 05/3/2022, tại Công ty cổ phần phân bón S, Nguyễn Văn Q là Giám đốc công ty đã chỉ đạo cho Lê Hưng L và Lê Thế H sản xuất liên tục sản phẩm phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc giả về chất lượng, tổng cộng 30.000kg thành phẩm, trị giá sản phẩm là 112.500.000 đồng (Một trăm mười hai triệu, năm trăm nghìn đồng), nhằm bán ra thị trường, đã thu lợi bất chính số tiền 1.824.489 đồng (Một triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn, bốn trăm tám mươi chín đồng).

Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L và Lế Thế H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn Q đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình là Giám đốc Công ty cổ phần phân bón S để chị đạo cán bộ kỹ thuật sản xuất sản phẩm phân bón giả về chất lượng để thu lợi bất chính. Các bị cáo là người có nhận thức, có trình độ và năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của việc sản xuất, buôn bán hàng giả sẽ gây ra hậu quả xấu cho người tiêu dùng và vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng và thiệt hại về kinh tế của người tiêu dùng, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi này đã xâm phạm đến chính sách quản lý của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về sản xuất phân bón. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo cũng như giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng chung tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Văn Q có mẹ đẻ là bà Đỗ Thị T được Bộ tư lệnh quân khu 4 “Chứng nhận tham gia dân công hỏa tuyến”. Bản thân Nguyễn Văn Q được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh xác nhận về việc hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai do mưa lũ và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã tỉnh Thanh Hóa tặng “Giấy khen đã có nhiều đóng góp tích cực trong cuộc vận động ủng hộ Quỹ phòng chống dịch Covid19 trong năm 2022”; Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo Nguyễn Văn Q đã tự nguyện nộp số tiền thu lợi bất chính vào ngân sách Nhà nước để khắc phục hậu quả thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo; Hơn nữa, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là khuyến khích các bị cáo tích cực nộp lại tiền thu lợi bất chính, tiền phạt, tiền bị cáo chiếm đoạt để thu hồi tài sản cho Nhà nước cho nên cần xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo. Do đó, bị cáo Q được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo Lê Thế H đang phải nuôi dưỡng hai con bị mắc chứng bệnh tự kỷ, trầm cảm (Có xác nhận trẻ khuyết tật mức độ nặng), hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương. Bị cáo L và H đã tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện tại địa phương (Có xác nhận của chính quyền địa phương). Bị cáo L và H nhiều năm được tặng Giấy khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công tác. Do đó, bị cáo L và H được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; Số lượng phân bón các bị cáo sản xuất quy mô nhỏ, chưa tiêu thụ nhiều, thu lợi bất chính không cao nên áp dụng hình phạt bằng hình thức phạt tiền đối với các bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Xét vai trò của các bị cáo: Vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ, không có sự sắp đặt, phân công vai trò, vạch kế hoạch cụ thể. Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Văn Q là người khởi xướng, chịu trách nhiệm chính trong thực hiện sản xuất, buôn bán 30.000 kg phân bón Trung lượng Hoa nông chuyên thúc giả. Bị cáo Lê Hưng L và Lê Thế Hùng với vai trò đồng phạm là người giúp sức tích cực trong đó Lê Hưng L giữ vai trò thứ hai, Lê Thế H vai trò cuối trong vụ án.

[6] Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[7] Về thu lợi bất chính: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.824.489 đồng thu lợi bất chính mà bị cáo Nguyễn Văn Q đã nộp cho cơ quan thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 477 bao phân bón trung lượng hoa nông chuyên thúc không sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 1 Điều 195; Điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q.

- Điểm a khoản 1 Điều 195; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Hưng L và Lế Thế H.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L và Lế Thế H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón”.

Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Văn Q 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng).

- Bị cáo Lê Hưng L 170.000.000đ (Một trăm bảy mươi triệu đồng).

- Bị cáo Lê Thế H 130.000.000đ (Một trăm ba mươi triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ 477 Bao phân bón trung lượng hoa nông chuyên thúc.

Ngày sản xuất ghi 04/3/2022 và 05/03/2022, tương đương 11.925 kilogam.

Hiện số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 183/2022/THA ngày 26/8/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa với Công an thành phố Thanh Hóa.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.824.489 đồng (Một triệu tám trăm hai mươi bốn nghìn, bốn trăm tám mươi chín đồng) Nguyễn Văn Q đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0001615 ngày 24/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14. Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Q, Lê Hưng L và Lê Thế H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

959
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phân bón số 290/2022/HS-ST

Số hiệu:290/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về