Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 37/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 09/05/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 9 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2023/TLST-HS ngày 7 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn T, sinh ngày 05/01/2003, tại huyện T, tỉnh Bắc Giang; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn T, xã Q, huyện T1, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: Chưa có; bị tạm giữ từ ngày 11/12/2022 đến ngày 16/12/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

2. Phạm Thanh P, sinh ngày 27/8/2004, tại huyện T (nay là thị xã T), tỉnh Bắc Ninh; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn T, xã Q, huyện T1, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N1 và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: Chưa có; bị tạm giữ từ ngày 12/12/2022 đến ngày 16/12/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

3. Đinh Phạm Minh T1, sinh ngày 19/7/2003, tại huyện T, tỉnh Đồng Nai; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn C, xã Q, huyện T, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Công T2 và bà Phạm Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: Chưa có; bị tạm giữ từ ngày 11/12/2022 đến ngày 16/12/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

4. Nguyễn Văn T3, sinh ngày 23/10/2004, tại huyện T, tỉnh Bắc Giang; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn C, xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1 và bà Hoàng Thị T4; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: Chưa có; bị tạm giữ từ ngày 12/12/2022 đến ngày 16/12/2022, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị H2, sinh năm 1990, có đơn xin xét xử vắng mặt; địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện T1, tỉnh Bắc Giang.

Người làm chứng: Anh Ngô Văn Đ, sinh năm 1994, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 11/12/2022, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên nhận được thông tin Phạm Văn T cùng 01 đối tượng chở 01 bao tải màu trắng đi từ thôn T, xã Q, huyện T1, tỉnh Bắc Giang theo hướng sang xã L, huyện T có biểu hiện vận chuyển, buôn bán pháo nổ. Khoảng 18 giờ tại đoạn đường bê tông bờ kênh N5 thuộc địa phận tổ dân phố P, thị trấn N, huyện T, tỉnh Bắc Giang, tổ công tác Công an huyện Tân Yên tiến hành xác minh, kiểm tra bắt quả tang Phạm Văn T và Đinh Phạm Minh T1 đang vận chuyển 02 dây pháo mỗi dây pháo dài 3 mét đi bán. Qúa trình bắt quả tang thu giữ:

+ 01 bao tải màu trắng, bên trong là 01 bao tải màu vàng có chứa 02 (hai) dây, mỗi dây có chiều dài 03m, gồm các hình trụ tròn màu đỏ được kết nối với nhau bằng dây dẫn nghi là pháo nổ được niêm phong trong 01 (một) thùng cát tông dạng hình hộp chữ nhật, mặt ngoài có chữ “Cơ sở sản xuất miến dong sạch; Miến Mộc”;

+ Tạm giữ của Phạm Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 pro màu xanh lắp sim số 08621381xx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, biển kiểm soát 98F1-213.xx.

+ Tạm giữ của Đinh Phạm Minh T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, màn hình bị rạn nứt số Imei 359206076707595, không lắp sim.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cân khối lượng vật chứng, kết quả: Khối lượng 2 dây, mỗi dây có chiều dài 03m, gồm các hình trụ tròn màu đỏ được kết nối với nhau bằng dây dẫn là 9,6kg.

Qúa trình làm việc T và T1 khai nhận ngày 11/12/2022 cùng Phạm Thanh P và Nguyễn Văn T3 làm pháo, sau đó T và T1 mang đi bán thì bị bắt quả tang. Ngày 12/12/2022, P và T3 đến Công an huyện Tân Yên đầu thú. T3 giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max, màu đen, số IMEI1: 353093103524227, số IMEI2 353093103714034 gắn sim điện thoại 0788.348.xxx.

Ngày 11/12/2022, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn T, Đinh Phạm Minh T1 và Nguyễn Văn T3, kết quả khám xét không thu giữ gì liên quan đến vụ án. Ngày 12/12/2022, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của P, kết quả khám xét thu giữ 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen, bị mỡ màn hình đã qua sử dụng có số IMEI 356566083411603.

Qúa trình điều tra Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1 và Nguyễn Văn T3 khai nhận:

Đầu tháng 12 năm 2022, Phạm Thanh P rủ Phạm Văn T, Đinh Phạm Minh T1 và Nguyễn Văn T3 cùng nhau sản xuất pháo nổ để đốt tết. T3, T và T1 đồng ý, P lập nhóm “Anh em c4” trên mạng xã hội facebook để liên hệ với nhau trong quá trình sản xuất pháo nổ. Ngày 08/12/2022, T3 đặt mua các hóa chất KCL03, Natri, Lưu Huỳnh trên sàn thương mại điện tử Lazada dùng để làm thuốc pháo, T1 mua giấy màu đỏ sử dụng để làm vỏ quấn pháo, quận giấy nilon bọc thực phẩm để chế tạo dây cháy chậm, P mua keo 502 và băng dính để quấn pháo, T chuẩn bị cát và giấy vệ sinh để làm pháo. Ngày 09/12/2022, Thân Công V ở xã A, huyện T, tỉnh Bắc Giang nhắn tin với P nói có bạn của V muốn mua hai dây pháo, mỗi dây dài ba mét, P đồng ý bán với giá 650.000 đồng/1mét. Sau đó, P thông báo với T3, T, T1 có người đặt hai dây pháo, mỗi dây dài ba mét, cả bốn người đồng ý cùng nhau chế tạo hai dây pháo theo yêu cầu của người mua. Khoảng 10 giờ ngày 10/12/2022, P, T1 tập trung ở nhà T và cùng nhau sử dụng giấy mầu và băng dính, giấy ăn, keo 502, chế tạo vỏ quả pháo, bằng cách sử dụng đũa tre có sẵn ở nhà T, sau đó quấn giấy mầu quanh đũa thành hình trụ, khi quấn đủ to thì sử dụng băng dính để dán ở bên ngoài và rút đũa ra, lấy giấy vệ sinh nhét kín một đầu rồi lấy keo 502 gắn chặt lại, để hở một đầu. T, P, T1 quấn đến khoảng 15 giờ chiều cùng ngày thì được 510 (năm trăm mười) vỏ quả pháo, để ở góc nhà T rồi tất cả đi về. Cùng ngày, T3 nhận được hóa chất và mang đến nhà T, khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/12/2022, T cùng với P, T1, T3 tập trung tại gian để đồ phòng ở của T tiếp tục làm pháo. T3 trộn thuốc theo tỉ lệ 6:5:2 tức là 6 thìa KCLO 3, 5 thìa Natri và 02 thìa Lưu huỳnh, P lấy thuốc pháo dồn vào từng vỏ pháo, T3 đổ thuốc pháo rải lên màng bọc thực phẩm rồi quấn lại làm dây cháy chậm. T và T1 lấy dây cháy chậm nhét vào một đầu mỗi quả pháo P đã dồn thuốc và nhét giấy vào cho chặt rồi P sử dụng cát để rắc lên đầu có dây cháy chậm của quả pháo và nhỏ keo 502 vào để cho chắc, T3 là người liên kết các quả pháo lại với nhau thành dây mỗi dây pháo là 255 quả. Đến khoảng 15 giờ 30 phút làm xong, P và T3 có việc bận nên ra ngoài, T gọi qua ứng dụng Messenger cho P hỏi là người kia có lấy luôn không, P bảo “để em hỏi xem có lấy luôn không”, P nhắn tin cho Thân Công V báo đã làm xong pháo, V cho Phương số điện thoại 0876.913.xxx của người mua pháo, P nhắn tin cho T số điện thoại của người mua và bảo T đi giao pháo, đồng thời bảo T giá bán là 650.000đ/mét pháo. T sử dụng số điện thoại 0862.138.xxx gọi liên hệ số điện thoại 0876.913.xxx người mua pháo và hẹn giao pháo tại bờ đê thuộc tổ dân phố P, thị trấn N, huyện T, tỉnh Bắc Giang. Lúc này, T lấy 01 bao tải màu vàng cho 2 đoạn dây pháo vào rồi cho vào 01 bao tải màu trắng cùng T1 mang đi bán. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, biển kiểm soát 98F1-213.xx chở T1 mang pháo đến địa điểm hẹn để giao pháo, trong quá trình đợi người đến mua pháo thì T và T1 bị Cơ quan điều tra bắt quả tang. Sau khi biết T và T1 bị bắt, P đã đến nhà T mang các đồ dùng để sản xuất pháo còn lại mang đi đốt, còn thuốc pháo thì đã sử dụng hết trong quá trình làm pháo.

Quá trình điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại thu giữ kết quả: Kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, không lắp sim của Đinh Phạm Minh T1: Kiểm tra ứng dụng facebook, ứng dụng Messenger facebook đăng nhập tài khoản “T1 Phạm” kết bạn với các tài khoản “Nguyễn Văn T3”, T1 khai nhận là của Nguyễn Văn T3, tài khoản “Phạm P” là của Phạm Thanh P, tài khoản “Phạm Văn T” là của Phạm Văn T Kiểm tra tài khoản “T1 Phạm” tham gia hội nhóm (đã gỡ tên nhóm, T, T1 bị xóa khỏi nhóm) có các thành viên P, T3, T. Nội dung có tin nhắn “Làm đê ae ơi” ngày 10/12/2022, kiểm tra các ứng dụng không phát hiện nội dung nào có liên quan. Kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus gắn sim số 0862.232.xxx của Phạm Thanh P kết quả: Kiểm tra ứng dụng facebook, ứng dụng Messenger facebook đăng nhập tài khoản “P Phạm” kết bạn với tài khoản “T1 Phạm”, P trình bày là của Đinh Phạm Minh T1; tài khoản “Nguyễn Văn T3” là của Nguyễn Văn T3; tài khoản “Phạm Văn T” là của Phạm Văn T. Trong danh sách bạn bè không có người tên “V, Thân Công V”, kiểm tra các ứng dụng không phát hiện nội dung nào có liên quan. Kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13Pro màu xanh lắp sim số 0862.138.xxx của Phạm Văn T kết quả: Kiểm tra cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, cuộc gọi nhỡ từ số 0862.138.xxx trên ứng dụng My viettel xác định có các cuộc gọi với số điện thoại 0876.913.xxx. Kiểm tra ứng dụng facebook, ứng dụng Messenger facebook đăng nhập tài khoản “Phạm Văn T” kết bạn với tài khoản “T1 Phạm”, T trình bày là của Đinh Phạm Minh T1; tài khoản “Nguyễn Văn T3” là của Nguyễn Văn T3; tài khoản “Phạm P” là của Phạm Thanh P. Kiểm tra tài khoản “Phạm Văn T” tham gia hội nhóm (đã gỡ tên nhóm, T bị xóa khỏi nhóm) có các thành viên P, T3, T1. Nội dung có tin nhắn “Làm đê ae ơi” ngày 10/12/2022. Nội dung với tài khoản “P Phạm” lưu trữ nội dung tin nhắn về việc trao đổi bán pháo cho người sử dụng số điện thoại 0876.913.xxx, kiểm tra các ứng dụng không phát hiện nội dung nào có liên quan. Kiểm tra điện thoại iphone Xs Max của Nguyễn Văn T3 kết quả: Kiểm tra ứng dụng facebook, ứng dụng Messenger facebook đăng nhập tài khoản “Nguyễn Văn T3” kết bạn với tài khoản “T1 Phạm”, T3 trình bày là của Đinh Phạm Minh T1; tài khoản “Phạm Văn T” là của Phạm Văn T; tài khoản “Phạm P” là của Phạm Thanh P. Kiểm tra tài khoản Lazada đăng nhập bằng tài khoản “T3 Nguyễn Văn”, tại mục các lịch sử mua hàng có nội dung ngày 08/12/2022 đặt mua 03 đơn hàng “Combo phân bón 1kg k3 & 500g lưu S& 500g Natri” từ sho “Vui là tết 2 - Hàng tinh khiết” với giá 119.000 đồng/1 đơn hàng, nhận ngày 10/12/2022, thanh toán số tiền 409.500 đồng. Đường linh người bán hàng http://s.lazada.vn/s.Xo8Nq.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 2303 /KL-ĐGTS ngày 16/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

“Trong 01 (một) thùng cát tông dạng hình hộp chữ nhật, mặt ngoài có chữ “Cơ sở sản xuất miến dong sạch; Miến Mộc”: 02 (hai) dây (tràng), mỗi dây có chiều dài 03m, gồm các vật hình trụ, vỏ giấy màu đỏ, được liên kết với nhau bằng dây dẫn (được đựng trong 01 (một) bao tải vàng, trong 01 (một) bao tải màu trắng) đều là Pháo nổ, có tổng khối lượng 9,8kg (chín phẩy tám kilogam)”.

Tại bản Cáo trạng số: 30/CT-VKS ngày 4 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1, Nguyễn Văn T3 về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phát biểu luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 14 (mười bốn) tháng đến 16 (mười sáu) tháng tù về tội Sản xuất, buôn bán hàng cấm, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 28 (hai tám) tháng đến 32 (ba hai) tháng.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh P từ 14 (mười bốn) tháng đến 16 (mười sáu) tháng tù về tội Sản xuất, buôn bán hàng cấm, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 28 (hai tám) tháng đến 32 (ba hai) tháng.

Xử phạt bị cáo Đinh Phạm Minh T1 từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù về tội Sản xuất, buôn bán hàng cấm, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 (hai tư) tháng đến 28 (hai tám) tháng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T3 từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù về tội Sản xuất, buôn bán hàng cấm, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 (hai tư) tháng đến 28 (hai tám) tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Giao các bị cáo T, P, T1, T3 cho UBND xã Q, huyện T, tỉnh Bắc Giang quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 pro màu xanh gắn sim số 0862.138.xxx của T, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, màn hình bị rạn nứt không lắp sim của T1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max, màu đen gắn sim số 0788.348.xxx của T3, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen gắn sim số 0862.232.xxx của P.

Tịch thu tiêu hủy 7,6 (bẩy phẩy sáu kilogam) pháo nổ đựng trong 01 bao tải màu vàng, trong 01 bao tải màu trắng tất cả được niêm phong trong 01 (một) thùng cát tông dạng hình hộp chữ nhật, mặt ngoài có chữ “Cơ sở sản xuất miến dong sạch, Miến Mộc”.

Về án phí: Các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn T3.

Các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1, Nguyễn Văn T3 đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đều thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố các bị cáo về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” là đúng người, đúng tội, các bị cáo đều xin hưởng án treo và hứa không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử kết luận hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định và hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng gồm: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị H2, nhân chứng anh Ngô Văn Đ. Những người trên đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, Chị H2 có đơn xin xét xử vắng mặt, người làm chứng vắng mặt không có lý do. Xét thấy hồ sơ vụ án có đầy đủ lời khai của những người này, nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử và không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[3] Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh Ph, Đinh Phạm Minh T1, Nguyễn Văn T3 đều thành khẩn khai báo, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận:

Đầu tháng 12/2022 Phạm Thanh P rủ Phạm Văn T, Đinh Phạm Minh T1 và Nguyễn Văn T3 cùng nhau sản xuất pháo nổ để đốt tết, T, T1, T3 đồng ý, P lập nhóm “Anh em c4” trên mạng xã hội facebook để tiện liên hệ với nhau. Ngày 8/12/2022 T3 đặt mua các hóa chất KCL03, Natri, Lưu Huỳnh trên sàn thương mại điện tử Lazada dùng để làm thuốc pháo, T1 mua giấy màu đỏ sử dụng để làm vỏ quấn pháo, quận giấy nilon bọc thực phẩm để chế tạo dây cháy chậm, P mua keo 502 và băng dính để quấn pháo, T chuẩn bị cát và giấy vệ sinh để làm pháo. Khoảng 10 giờ ngày 10/12/2022 T1, P tập trung ở nhà T và cùng nhau sử dụng giấy mầu và băng dính, giấy ăn, keo 502 để chế tạo vỏ quả pháo. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/12/2022, T, T1, P, T3 tiếp tục làm pháo, đến khoảng 15 giờ 30 phút làm xong. P nhắn tin cho Thân Công V báo đã làm xong pháo, V cho P số điện thoại của người mua pháo là 0876.913.xxx, P nhắn tin cho T số điện thoại của người mua và bảo T đi giao pháo với giá là 650.000đ/mét pháo. T sử dụng số điện thoại 0862.138.xxx gọi liên hệ với người mua pháo và hẹn giao pháo tại bờ đê thuộc tổ dân phố P, thị trấn N, huyện T, tỉnh Bắc Giang. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, biển kiểm soát 98F1- 213.xx chở T1 mang pháo đến địa điểm hẹn để giao pháo thì bị Cơ quan điều tra bắt quả tang.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của các bị cáo làm ra quả pháo, bện các quả pháo thành dây rồi mang đi bán kiếm lời, đã xâm phạm đến quy định hàng hóa mà Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”. Căn cứ vào khối lượng Pháo nổ là 9,8kg (chín phẩy tám kilogam), Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1, Nguyễn Văn T3 về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét các tình tiết để quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1, Nguyễn Văn T3 khai báo thẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, các bị cáo đều phạm tội lần đầu, bị cáo T3, bị cáo P sau khi phạm tội đã ra đầu thú, các bị cáo T, P, T1 đều có đơn xin tham gia nghĩa vụ quân sự năm 2022 có xác nhận của UBND xã Q, Đoàn xã Q xác nhận các bị cáo T, P, T1 tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện phòng chống dịch Covid-19 các năm 2020 và năm 2021, bị cáo T có ông ngoại được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, bị cáo T1 có ông ngoại được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng 3. Do vậy các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội xét thấy: Các bị cáo phạm tội đều vừa bước qua tuổi 18, phạm tội một cách bột phát trong thời gian chờ đi nghĩa vụ quân sự, do vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội mà cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục, răn đe đối với các bị cáo, đồng thời cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước. Mức hình phạt áp dụng cho bị cáo T, bị cáo P cao hơn bị cáo T1, bị cáo T3 và theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả mà các bị cáo đã gây ra.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Xét thấy các bị cáo đều không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản có giá trị. Hội đồng xét xử miễn phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, biển kiểm soát 98F1-213.xx là tài sản của chị Phạm Thị H2, quá trình điều tra xác định chị H2 cho bị cáo T mượn xe không biết bị cáo sử dụng để đi bán pháo. Ngày 20/02/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên đã trả lại chiếc xe trên cho chị H2 là đúng quy định pháp luật.

Đối với đối tượng Thân Công V nhà ở xã A, huyện T, tỉnh Bắc Giang giới thiệu cho bị cáo Phạm Thanh P số điện thoại của người đặt mua pháo. Bị cáo P không biết năm sinh, địa chỉ cụ thể của người này. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, tuy nhiên do không có đầy đủ thông tin nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Đối với người đặt mua pháo nổ sử dụng số điện thoại 0876.913.xxx liên lạc với bị cáo Phạm Văn T. Tuy nhiên bị cáo T, bị cáo P không biết người này là ai. Tại kết quả thu giữ điện tín xác định chủ số thuê bao là Triệu Ánh H3, sinh năm 2004 trú tại phường D, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Qúa trình xác minh chị H3 không có mặt tại địa phương, không xác định được chị H3 làm gì, ở đâu. Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên đã tách phần tài liệu liên quan đến người mua pháo để tiếp tục xác minh, khi nào có căn cứ xử lý theo quy định.

Đối với gian hàng trên Sàn thương mại điện tử Lazada bán hóa chất cho Nguyễn Văn T3, ngày 26/12/2022, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên có văn bản đề nghị Lazada cung cấp thông tin chủ gian hàng. Cơ quan điều tra đã nhiều lần đôn đốc, tuy nhiên đến nay chưa có kết quả. Do đó, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên tách phần tài liệu có liên quan ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục xác minh xử lý theo quy định.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 pro màu xanh gắn sim số 0862.138.xxx của bị cáo Phạm Văn T, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, màn hình bị rạn nứt không lắp sim của bị cáo Đinh Phạm Minh T, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max, màu đen gắn sim số 0788.348.xxx của bị cáo Nguyễn Văn T3, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen gắn sim số 0862.232.xxx của bị cáo Phạm Thanh P là điện thoại của các bị cáo sử dụng để liên lạc, trao đổi việc sản xuất, mua bán pháo cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 7,6 (bẩy phẩy sáu kilogam) pháo nổ đựng trong 01 bao tải màu vàng, trong 01 bao tải màu trắng tất cả được niêm phong trong 01 (một) thùng cát tông dạng hình hộp chữ nhật, mặt ngoài có chữ “Cơ sở sản xuất miến dong sạch; Miến Mộc” sau khi giám định, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn T3 thuộc hộ cận nghèo nên được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Về điều luật: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 47, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 106, Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 6, điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2- Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 08 (tám) tháng. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh P 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 08 (tám) tháng. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo Đinh Phạm Minh T1 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T3 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Giao các bị cáo T, P, T1, T3 cho UBND xã Q, huyện T, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

* Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

3- Về vật chứng vụ án:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 pro màu xanh gắn sim số 0862.138.xxx của bị cáo Phạm Văn T, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, màn hình bị rạn nứt không gắn sim của bị cáo Đinh Phạm Minh T1, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max, màu đen gắn sim số 0788.348.xxx của bị cáo Nguyễn Văn T3, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen gắn sim số 0862.232.xxx của bị cáo Phạm Thanh P.

Tịch thu tiêu hủy 7,6 (bẩy phẩy sáu kilogam) pháo nổ đựng trong 01 bao tải màu vàng, trong 01 bao tải màu trắng tất cả được niêm phong trong 01 (một) thùng cát tông dạng hình hộp chữ nhật, mặt ngoài có chữ “Cơ sở sản xuất miến dong sạch, Miến Mộc”.

(Vật chứng của vụ án như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên.)

4- Về án phí: Các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Thanh P, Đinh Phạm Minh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn T3.

5- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày nhận được (hoặc kể từ ngày niêm yết) bản án xét xử vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 37/2023/HS-ST

Số hiệu:37/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về