Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 27/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 07/03/2022 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 07 tháng 3 năm 2022, tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2022/TLST-HS ngày 25/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án xét xử số 19/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đoàn Văn C sinh ngày: 25/02/2005. Nơi cư trú: Thôn 2, xã S, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: Lớp 10/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đoàn Văn T, sinh năm 1980 và bà Trần Thị H, sinh năm 1976. Chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt quả tang ngày 18/01/2022; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Hạ Long, có mặt.

2. Họ và tên: Hoàng Văn C2, sinh ngày: 03/6/1996. Nơi cư trú: Thôn 2, xã S, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ văn hóa: Lớp 10/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Hoàng Văn T (đã chết) và bà Đoàn Thị T, sinh năm 1958. Chưa có vợ, con. Tiền án: Ngày 07/11/2014 bị TAND thị xã Quảng Yên xử phạt 07 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 07/12/2019 chấp hành xong hình phạt tù. Tiền sự: Không. Bị bắt quả tang ngày 18/01/2022; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Hạ Long, có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Vũ Văn P, sinh năm 1994. Địa chỉ: Tổ 10, khu 3, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt - Người chứng kiến:

1. Anh Lư Việt A, sinh năm 1992. Địa chỉ: Tổ 10, khu 2, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1971. Địa chỉ: Tổ 7, khu 1, phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Hoàng Văn C2 có quen biết với Vũ Văn P là bạn tù cùng ở Trại giam Đồng Vải khi đi chấp hành án. Đầu tháng 01/2022, P liên hệ với Hoàng Văn C2 hỏi mua pháo, P và Hoàng Văn C2 thỏa thuận 01 mét pháo dây giá 800.000đ rồi hẹn đến ngày 18/01/2022 thì giao pháo. Sau khi thỏa thuận mua bán pháo với P, Hoàng Văn C2 gọi điện thoại cho cháu họ là bị cáo Đoàn Văn C, sinh ngày 25/02/2005 tìm mua pháo. Đoàn Văn C trả lời tự làm được pháo tép nối lại thành dây dài 01 mét, giá làm 01 mét dây pháo là 600.000đ. Hoàng Văn C2 đặt Đoàn Văn C làm 20 mét pháo hẹn ngày 18/01/2022 giao hàng.

Khoảng 04 giờ ngày 18/01/2022, Đoàn Văn C gọi điện thoại báo cho Hoàng Văn C2 đã làm xong và cho 20 cuộn pháo trong một bao dứa màu trắng. Hoàng Văn C2 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 14X1-436.89 đến nhà Đoàn Văn C để lấy pháo. Sau khi lấy được pháo, Hoàng Văn C2 rủ Đoàn Văn C đi giao pháo cùng. Đoàn Văn C đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS 14X1-404.90 đi cùng đến điểm hẹn với P ở thành phố Hạ Long để giao pháo. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, khi đến điểm hẹn tại ngõ 5 Cao Thắng thuộc khu 2, phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long cả hai dừng xe để đợi P đến giao pháo nhưng chưa kịp giao thì bị Công an thành phố Hạ Long phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: Thu tại giá để hàng ở giữa xe máy Honda Wave màu sơn trắng, BKS 14X1-436.89 một bao dứa màu trắng, một mặt có ghi chữ màu đỏ “Tập Đoàn Hy Vọng Phương Đông” bên trong có 20 cuộn màu đỏ, mỗi cuộn dài khoảng 01 mét, gồm nhiều ống hình trụ tròn nối lại với nhau bằng dây, mỗi ống có kích thước (0,4x1,5)cm, tổng trọng lượng khoảng 09kg; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, BKS 14X1-436.89 của Hoàng Văn C2; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu tím, BKS 14X1-404.90 của Đoàn Văn C; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmast màu tím do Hoàng Văn C2 sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu bạc do Đoàn Văn C sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đoàn Văn C còn thu giữ trong phòng ngủ 01 thùng sắt màu xám bên trong có: 175 cuộn giấy đỏ quấn thành cục hình trụ, 305 dải giấy đỏ khổ (60x4)cm, 01 cây bút màu xanh trắng (bút nến) kích thước khoảng (10x0,2)cm, 10 que tre vót nhọn dài kích thước khoảng (10x0,1)cm, 01 mảnh gỗ phẳng kích thước (1x25x5)cm hình chữ nhật, hai mặt phẳng.

Tại Kết luận giám định số 460 ngày 19/01/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Các mẫu vật gửi giám định đều là pháo nổ. Khối lượng pháo là 8,8kg. Trả lại mẫu vật sau khi trích 0,4kg pháo nổ để giám định.

Tại Kết luận giám định số 510 ngày 21/01/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận: 175 cuộn hình trụ gửi giám định đều là các cuộn giấy không phải là pháo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Đoàn Văn C và Hoàng Văn C2 đều có lời khai giống như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Ngoài ra, Đoàn Văn C còn khai cách thức sản xuất pháo như sau:

Nảy sinh ý định bán pháo dịp Tết nên Đoàn Văn C đã lên mạng Intenet tìm hiểu cách làm pháo. Ngày 15/01/2022, Đoàn Văn C đặt mua trên mạng các nguyên liệu bột KCLO3, lưu huỳnh, than xay vụn của nhiều người khác nhau (đều không rõ lai lịch, địa chỉ) và mua giấy đỏ gói, màng bọc thực phẩm tại hàng tạp hóa gần nhà, tổng số mua hết khoảng 03 triệu đồng tiền nguyên liệu để sản xuất pháo. Đến ngày 17/01/2022, Đoàn Văn C tự làm pháo trong phòng ngủ tại nhà, cụ thể trộn đều 03 loại bột trên, sau đó cắt giấy đỏ thành các dải giấy rồi cuộn lại, cho thuốc tự pha chế vào giữa, ở giữa cuộn có một dây cháy chậm tự chế. Dây cháy làm bằng màng bọc thực phẩm rải rộng rồi rắc bột pháo lên, sau đó cuộn lại thành dây cháy chậm. Sau khi làm xong các quả pháo Đoàn Văn C nối các quả pháo kích thước khoảng (0,4x1,5)cm trên thành dây dài 01 mét. Bị cáo cũng khai những người trong gia đình bị cáo không được biết việc bị cáo sản xuất pháo trong phòng ngủ của bị cáo.

Lời khai của người làm chứngVũ Văn P: Có nhờ Hoàng Văn C2 tìm mua pháo về dùng dịp Tết nguyên đán và thống nhất là 800.000đ/mét pháo. P đặt Hoàng Văn C2 20 mét pháo dây và hẹn đến ngày 18/01/2022 thì giao pháo tại thành phố Hạ Long. Sau khi đặt Hoàng Văn C2 mua pháo có tìm hiểu lại quy định chỉ được đốt pháo do Bộ quốc phòng sản xuất nên P không mua pháo của Hoàng Văn C2 nữa (bút lục số 139-141) Lời khai của người chứng kiến: Anh Lư Việt Anh và anh Nguyễn Văn Công là những người được chứng kiến các bị cáo bị bắt quả tang khi đang chờ giao pháo tại khu vực ngõ 5 Cao Thắng, thành phố Hạ Long và bị Công an bắt quả tang có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo (bút lục số 106-121) Bản Cáo trạng số 21/CT-VKSHL ngày 24/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố bị cáo Đoàn Văn C về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”; truy tố bị cáo Hoàng Văn C2 về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm truy tố với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91, 101 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đoàn Văn C. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn C2; xử phạt mỗi bị cáo từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình chuẩn bị xét xử vụ án, bị cáo Đoàn Văn C có quan điểm các tình tiết của vụ án đã được điều tra làm rõ nên không nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và cũng không đề nghị Tòa án yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.

[3] Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi bị cáo đã thực hiện vào ngày 18/01/2022 như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người chứng kiến và phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục số 90, 91); biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường (bút lục số 92-94), bản ảnh hiện trường (bút lục số 96-98); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục số 99); kết luận giám định (bút lục số 61-67); biên bản khám xét (bút lục số 15-17); biên bản thực nghiệm điều tra và bản ảnh (bút lục số 51-58) và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo khẳng định việc truy tố đối với các bị cáo là đúng; không oan, sai.

Như vậy đủ cơ sở khẳng định: Hồi 06 giờ ngày 18/01/2022, tại khu vực ngõ 5 phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, các bị cáo Đoàn Văn C và Hoàng Văn C2 có hành vi tàng trữ trái phép 8,8kg (tám phảy tám ki-lô-gam) pháo nổ, mục đích để bán thì bị Công an thành phố Hạ Long phát hiện bắt quả tang. Nguồn gốc số pháo là do bị cáo Đoàn Văn C tự sản xuất ngày 17/01/2022 trong phòng ngủ ở nhà bị cáo Đoàn Văn C thuộc thôn 2, xã S, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.

[5] Hành vi của bị cáo Đoàn Văn C đã phạm tội: “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”; hành vi của bị cáo Hoàng Văn C2 đã phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế là khách thể được pháp luật nhà nước ta bảo vệ. Các bị cáo biết rõ sự nguy hiểm của pháo nổ và biết việc nhà nước ta cấm mọi hành vi sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển pháo nổ, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện; lợi dụng dịp Tết nguyên đán để sản xuất và tiêu thụ, mục địch kiếm lời phục vụ bản thân. Hành vi phạm tội của các bị cáo cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung; đáp ứng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[7] Về vai trò của các bị cáo: Hai bị cáo thực hiện hành vi phạm tội độc lập. Bị cáo Hoàng Văn C2 là người đặt vấn đề mua pháo của bị cáo Đoàn Văn C. Sau đó bị cáo Đoàn Văn C đồng ý và là người sản xuất pháo để bán cho Hoàng Văn C2.

[8] Bị cáo Đoàn Văn C phạm tội khi chưa đủ 17 tuổi nên được áp dụng quy định của pháp luật đối người dưới 18 tuổi phạm tội.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[10] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đoàn Văn C: Không có Bị cáo Hoàng Văn C2: Phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm” nên phải chịu tình tiết quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[11] Về vật chứng:

Đối với số pháo hoàn lại sau giám định là vật cấm nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiêu hủy là phù hợp, không đề cập xem xét.

Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS 14X1-436.89 thuộc quyền sở hữu của bị cáo Hoàng Văn C2 và 01 chiếc xe mô tô BKS 14X1-404.90 thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Hường (mẹ đẻ bị cáo), không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các chủ sở hữu.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Vsmast màu tím và 01 chiếc điện thoại Iphone màu bạc thu giữ của hai bị cáo, các bị cáo dùng để liên lạc sản xuất, buôn bán pháo, là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với các vật chứng gồm: 175 cuộn giấy đỏ quấn thành cục hình trụ, 305 dải giấy đỏ khổ (60x4)cm, 01 cây bút màu xanh trắng (bút nến) kích thước khoảng (10x0,2)cm, 10 que tre vót nhọn dài kích thước khoảng (10x0,1)cm, 01 mảnh gỗ phẳng kích thước (1x25x5)cm là những vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[12] Về án phí hình sự: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[13] Về quyền kháng cáo: các bị cáo được quyền kháng cáo theo luật định.

[14] Đối với những người bán nguyên liệu cho Đoàn Văn C sản xuất pháo, qúa trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để xử lý. Đối với hành vi của Vũ Văn P đặt mua pháo nhưng biết là vi phạm pháp luật nên không mua nữa, là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn C phạm tội: “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”. Bị cáo Hoàng Văn C2 phạm tội: “Buôn bán hàng cấm” Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt: 18/01/2022.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C2 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt: 18/01/2022.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;; điểm a khoản 2; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Vsmast màu tím và 01 chiếc điện thoại Iphone màu bạc.

Trả lại bị cáo Hoàng Văn C2 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14X1-436.89. Trả lại bà Trần Thị Hường (sinh năm 1976. Nơi cư trú: Thôn 2, xã S, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14X1-404.90 Tịch thu tiêu hủy 175 cuộn giấy đỏ quấn thành cục hình trụ, 305 dải giấy đỏ khổ (60x4)cm, 01 cây bút màu xanh trắng (bút nến) kích thước khoảng (10x0,2)cm, 10 que tre vót nhọn dài kích thước khoảng (10x0,1)cm, 01 mảnh gỗ phẳng kích thước (1x25x5)cm (Các vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng số 103/BB- THA ngày 10/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh)

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

432
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về