Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 112/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 112/2023/HS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 11 tháng 9 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T mở phiên tòa trực tuyến tại 02 điểm cầu gồm: Điểm cầu trung tâm tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đ, điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn L, tên gọi khác: Không; sinh ngày 13/4/1989; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm B, xã B, huyện Đ, tỉnh T; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Quyết T (đã chết) và bà: Hoàng Thị H, sinh năm 1965; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình; Có vợ là: Hoàng Lan P, sinh năm 1989, có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 19/4/2021 bị Công an huyện Đ quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với số tiền 1.500.000 đồng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/4/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh T.

(Có mặt tại phiên tòa)

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn L: Bà Mạc Thị H1 - Luật sư, cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T.

(Có mặt tại phiên tòa)

- Người tham gia tố tụng khác:

1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1965

+ Chị Hoàng Lan P, sinh năm 1989 Cùng nơi cư trú: Xóm B, xã B, huyện Đ, tỉnh T.

(Đều có mặt tại phiên tòa) 2. Người làm chứng: Ông Đỗ Văn L1, sinh năm 1964 Nơi cư trú: TDP C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh T.

(Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 29/4/2023, Công an huyện Đ, tỉnh T nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại quán C1 thuộc tổ dân phố C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh T có đối tượng nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến việc mua bán hàng cấm (pháo nổ) tổ công tác Công an huyện Đ tiến hành xác minh thì phát hiện tại quán cà phê TIPTOP 01 người nam giới có đặc điểm nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính thì người nam giới này khai nhận họ ten là Bùi Văn L và bản thân đang có hành vi tàng trữ 65 quả pháo nổ, có kích thước khác nhau được đựng trong 01 bao tải dứa màu trắng và 01 túi nilon màu đen (L khai nhận đây pháo nổ của L, do L tự sản xuất mục đích để bán kiếm lời). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, gồm:

+ 65 vật hình trụ tròn, có kích thước không đồng đều (16 vật hình trụ tròn có cùng đặc điểm, kích thước là chiều dài 13 cm, đường kính 07 cm; 15 vật trụ tròn loại nhỡ có cùng đặc điểm, kích thước là chiều dài 12,8 cm, đường kính là 06 cm; 34 vật hình trụ tròn, loại nhỏ nhất có cùng đặc điểm là chiều dài 4,8cm, đường kính 2,3 cm), mỗi vật đều được cuốn bên ngoài bằng giấy nhiều màu, một đầu gắn một sợi dây màu trắng, đầu còn lại bịt kín. Tiến hành niêm phong 65 vật hình trụ tròn, có kích thước không đồng đều, như nêu trên (nghi là pháo nổ), được niêm phong vào thùng giấy cát tông có ký hiệu M;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen, có số IMEI: 867695059089671, được niêm phong vào phong bì ký hiệu A;

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda - Dream, màu nâu, gắn BKS 29K6-xxxx, xe cũ, đã qua sử dụng.

Hồi 13 giờ 25 phút cùng ngày, Tổ công tác Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở, địa điểm đối với Bùi Văn L. Kết quả khám xét thu giữ:

+ Tại nền nhà phòng khách, sát cửa chính: 01 thanh gỗ hình trụ màu trắng - hồng - nâu, có kích thước lần lượt là (87x2,1)cm; 01 thanh gỗ màu trắng - xám - hồng kích thước (82x5,9x1,6)cm, trên thanh gỗ thiết kế 07 lỗ hình tròn, hai đầu thanh gỗ có vết vỡ; 01 vật bằng gỗ không rõ hình, được cuộn băng dính trên bề mặt;

+ Tại mặt bàn học sinh màu hồng kê trong phòng khách gần gian buồng ngủ: 36 cuộn giấy hình trụ màu đỏ (rỗng ở giữa) kích thước giống nhau (2,7x4,8)cm, được đựng trong hộp catton màu vàng có chữ “Cozy”; 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng chất bột màu đen; 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng những hạt tinh thể li ti màu vàng, đen (dạng giống hạt cát); 01 lọ keo 502 vỏ bằng nhựa, màu trắng đã sử dụng hết; 02 đoạn dây màu bạc, có kích thước lần lượt là (92 x 0,2)cm, (121 x 0,2)cm;

+ Tại ngăn tủ bàn học: 02 cuộn băng dính màu trắng - xanh, cùng giống nhau; 30 mảnh giấy bản màu đỏ cùng kích thước, trung bình (54 x 12,8)cm; 18 mảnh giấy có cùng kích thước, trung bình (29 x 4,5)cm;

+ Tại cửa sổ trong buồn ngủ: 04 vật hình trụ, màu đỏ có kích thước khác nhau, chiều dài, chiều cao lần lượt là (8 x 13)cm; (7,5 x 13)cm; (7 x 13)cm và (2,8 x 4,8)cm, có thiết kế một dãy màu bạc ở giữa; 02 cuộn giấy hình trụ màu đỏ, rỗng ở giữa, một đầu được bịt kín vật chất màu trắng, có kích thước (7 x 12,8 )cm; (6,8 x 13)cm;

+ Tại nóc tủ quần áo trong buồng ngủ: 02 vật hình trụ tròn, cùng có vỏ bằng kim loại màu bạc, có kích thước chiều dài, chiều cao lần lượt là (9,5 x 2,5)cm; (9 x 2,2)cm, một đầu vật kim loại có gắn một đoạn dây màu bạc.

Tổ công tác công an huyện Đ tiến hành lập biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu thu giữ của Bùi Văn L:

+ Niêm phong vào hộp catton, ký hiệu A1: 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng chất bột màu đen; 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng những hạt tinh thể li ti màu vàng, đen (dạng giống hạt cát);

+ Niêm phong vào túi niêm phong có ký hiệu PS3 2123816: 02 đoạn dây màu bạc: 01 đoạn hình thước (92 x 0,2)cm; 01 đoạn kích thước (121 x 0,2)cm;

+ Niêm phong vào hộp catton, ký hiệu A2: 04 vật hình trụ, màu đỏ có kích thước khác nhau, lần lượt là (8 x 13)cm, (7,5 x 13)cm; (7 x 13)cm và (2,8 x 4,8)cm, có thiết kế một dãy màu bạc ở giữa; 02 vật hình trụ tròn, cùng có vỏ bằng kim loại màu bạc, có kích thước lần lượt là (9,5 x 2,5)cm; (9 x 2,2)cm, một đầu vật kim loại có gắn một đoạn dây màu bạc.

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 29/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Đ tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng các vật hình trụ nghi là pháo nổ, thuốc pháo trong các thùng catton, có ký hiệu M, A1, A2, kết quả:

+ Bên trong thùng catton, niêm phong, ký hiệu M, bên trong có 65 vật hình trụ tròn, có kích thước không đồng đều, tổng khối lượng là 8,9 kg, cụ thể: 16 vật hình trụ tròn có cùng đặc điểm, kích thước là chiều dài 13 cm, đường kính 07 cm; có khối lượng là 5,3kg; Tiến hành lấy ngẫu nhiên 03 vật trụ hình tròn, có khối lượng 1,05 kg, niêm phong vào phong bì ký hiệu M1, làm mẫu gửi giám định; 15 vật trụ tròn loại nhỡ có cùng đặc điểm, kích thước là chiều dài 12,8 cm, đường kính là 06 cm; có khối lượng là 2,95 kg; Tiến hành lấy ngẫu nhiên 03 vật trụ hình tròn, có khối lượng 0,6 kg, niêm phong vào phong bì ký hiệu M2, làm mẫu gửi giám định; 34 vật hình trụ tròn loại nhỏ nhất có cùng đặc điểm là chiều dài 4,8cm, đường kính 2,3cm), có khối lượng là 0,65 kg. Tiến hành lấy ngẫu nhiên 05 vật trụ hình tròn, có khối lượng 0,1 kg, niêm phong vào phong bì ký hiệu M3, làm mẫu gửi giám định.

+ Bên trong hộp catton ký hiệu A1: 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng những hạt tinh thể li ti màu vàng đen (dạng giống hạt cát); quá trình làm việc, L khai nhận đây là hạt cát, Cơ quan điều tra tiến hành niêm phong ký hiệu C2, lưu kho, để phục vụ điều tra; 01 hộp nhựa màu trắng bên trong đựng chất bột màu đen; (L khai đây là thuốc pháo đen của L), lấy toàn bộ khối lượng chất bột màu đen lên cân, xác định khối lượng là 32,61 gam, đã trừ bì, niêm phong vào bì niêm phong ký hiệu A3, để gửi giám định.

+ Bên trong hộp catton ký hiệu A2, có 06 vật hình trụ tròn, có kích thước không đồng đều, tổng khối lượng là 1,2 kg: 04 vật hình trụ, màu đỏ có kích thước khác nhau (8 x 13; 7,5 x 13; 7 x 13) và (2,8 x 4,8) cm, có thiết kế một dãy màu bạc ở giữa; có tổng khối lượng là 1,1 kg; 02 vật hình trụ tròn, cùng có vỏ bằng kim loại màu bạc, có kích thước lần lượt là (9,5 x 2,5)cm; (9 x 2,2) cm, một đầu vật kim loại có gắn một đoạn dây màu bạc, có tổng khối lượng là 0,1 kg; Tiến hành lấy toàn bộ 06 vật hình trụ, niêm phong vào hộp ký hiệu A2, gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 652/KL - KTHS ngày 04/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận:

+ 03 vật hình trụ tròn có cùng đặc điểm, kích thước, bên ngoài bọc giấy màu đỏ, một đầu bịt kín gắn sợi dây màu bạc, đầu còn lại bịt kín, dài 13cm, đường kính 07 cm được niêm phong trong hộp catton, ký hiệu M1 là pháo nổ;

+ 03 vật hình trụ tròn có cùng đặc điểm, kích thước, bên ngoài bọc giấy màu đỏ, một đầu bịt kín gắn sợi dây màu bạc, đầu còn lại bịt kín, dài 12,8cm, đường kính 06 cm được niêm phong trong hộp catton, ký hiệu M2 là pháo nổ;

+ 05 vật hình trụ tròn có cùng đặc điểm, kích thước, bên ngoài bọc giấy màu đỏ, một đầu bịt kín gắn sợi dây màu bạc, đầu còn lại bịt kín dài 4,8cm, đường kính 2,3 cm được niêm phong trong hộp catton, ký hiệu M3 là pháo nổ;

+ 04 (bản) vật hình trụ tròn, bên ngoài đều bọc giấy màu đỏ, một đầu bịt kín gắn sợi dây màu bạc, đầu còn lại bịt kín, có kích thước lần lượt là (08x13) cm, (7,5x13) cm, (7x13) cm, (2,8x4,8) cm và 02 vật hình trụ tròn có vỏ bằng kim loại màu bạc, một đầu bịt kín gắn sợi dây màu bạc, đầu còn lại bịt kín có kích thước lần lượt là (9,5x2,5) cm, (09x2,2) cm được niêm phong trong hộp catton, ký hiệu A2 là pháo nổ;

+ Mẫu vật chất trong bì niêm phong ký hiệu A3 gửi mẫu giám định gồm hỗn hợp các chất Kali Clorat (KClO3), Lưu huỳnh (S), C (C), là thuốc pháo;

+ 02 đoạn dây màu bạc có kích thước lần lượt là (92x0,2)cm, (121 x 0,2)cm được niêm phong trong bì niêm phong ký hiệu PS3 2123816 là dây cháy chậm.

Tại Cơ quan điều tra Bùi Văn L khai nhận: L thấy trên mạng Internet có các video hướng dẫn tự làm pháo nổ tại nhà bằng hoá chất hoá học nên L đã nảy sinh ý định tự chế tạo pháo nổ tại nhà, mục đích để bán kiếm lời. Sáng ngày 26/4/2023, khi L ngồi uống nước tại quán nước vỉa hè (L không nhớ tên quán) thuộc Tổ dân phố C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh T thì gặp 01 người đàn ông không quen biết, người này giới thiệu tên là M, sinh năm: 1988, nhà ở xã B, huyện Đ, tỉnh T và hỏi L có biết làm pháo nổ không thì L trả lời là có, L cho M số điện thoại của L để tiện liên lạc, giao dịch mua bán pháo nổ, rồi, L đi về nhà. Đến sáng ngày 27/4/2023, M sử dụng mạng Zalo có tên tài khoản là “Khổng Minh” nhắn tin tới tài khoản Zalo của L có tên là “Long Phong L2”, theo số điện thoại L2 vừa cho M, đặt mua của 65 quả pháo nổ, trong đó có 16 quả pháo loại to, 15 quả pháo loại nhỡ, 34 quả loại nhỏ thì L2 đồng ý, hẹn khi nào làm xong thì báo giá cho M. Sáng ngày 28/4/2023, L2 lên mạng Internet, đặt mua các chất hoá học để sản xuất pháo nổ, gồm chất Kali Clorat (KClO3) và lưu huỳnh (S) với giá 200.000 đồng, rồi L2 một mình ra cửa hàng tạp hoá ở gần nhà mua màng bọc thực phẩm, keo con voi 502, băng đính, giấy đỏ, giấy nhiều màu để về sản xuất pháo nổ; Còn than củi, cát thì có sẵn ở nhà L2. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, L2 đi ra khu vực tam giác Đ, gần Bưu điện huyện Đ để lấy gói hàng bên trong có hoá chất Kali Clorat (KClO3)và lưu huỳnh (S), đặt trên mạng lúc sáng do một xe ô tô khách chở về (L2 không biết xe khách này là xe của ai, biển kiểm soát bao nhiêu, chỉ thấy lái xe khách gọi ra lấy hàng). Lúc này, L2 chưa thanh toán 200.000 đồng tiền hàng và tiền cước. Lấy được hoá chất, L2 bắt đầu sản xuất pháo nổ, L2 trộn đều các chất hoá học Kali Clorat (KClO3) và lưu huỳnh (S) theo tỷ lệ 06 thìa KClO3 : 04 than củi : 02 thìa lưu huỳnh để làm thuốc pháo, rồi đựng thuốc pháo vào hộp nhựa màu trắng. Sau đó, L2 dùng giấy để cuộn thành các hình trụ tròn có kích thước khác nhau, rỗng ở giữa để làm vỏ pháo rồi dùng keo 502, các hạt cát màu vàng để bịt kín một đầu. Tiếp đến L2 sử dụng màng bọc thực phẩm cuốn thuốc pháo (vừa trộn) để làm dây cháy chậm, chia thành từng đoạn ngắn, cuối cùng L2 cho thuốc pháo vào trong từng vỏ pháo rỗng ở giữa đã được bịt kín một đầu như ở trên rồi gắn dây cháy chậm vào đầu còn lại để hoàn thành 01 quả pháo. Đến khoảng 02 giờ ngày 29/4/2023, L2 đã làm xong 71 quả pháo, trong đó: Có 65 quả pháo nổ bị cáo dự định mang đi bán cho M có 16 quả pháo loại to, kích thước cao 13cm, đường kính 07 cm; 15 quả pháo loại nhỏ, kích thước cao 12,8cm, đường kính 06cm; 34 quả loại nhỏ, kích thước cao 4,8cm, đường kính 2,3cm) và 06 quả pháo nổ còn lại có kích thước khác nhau gồm 04 quả pháo nổ hình trụ tròn, màu đỏ có kích thước khác nhau, chiều dài, chiều cao lần lượt lần lượt là (8 x 13) cm; (7,5 x 13) cm; (7 x 13)cm; (2,8 x 4,8) cm, có thiết kế một dãy màu bạc ở giữa và 02 quả pháo nổ hình trụ tròn, cùng có vỏ bằng kim loại màu bạc, có kích thước chiều dài, chiều cao lần lượt lần lượt là (9,5 x 2,5)cm; (9 x 2,2) cm, một đầu vật kim loại có gắn một đoạn dây màu bạc, đây là 06 quả pháo nổ do khi L2 sản xuất xong 65 quả pháo cho M thì thấy còn thừa nguyên liệu sản xuất pháo nổ nên L2 tiếp tục làm thêm 06 quả pháo nổ này, mục đích để xem ai có nhu cầu mua thì L2 sẽ bán rồi L2 cất giấu 06 quả pháo này trong phòng ngủ của L2. Sau đó, L2 chụp ảnh 65 quả pháo nổ vừa làm xong gửi cho M thì M hẹn gặp L2 vào sáng ngày 29/4/2023 để giao dịch mua bán pháo nổ. Đến khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 29/4/2023 L2 điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Dream, BKS: 29K6-xxxx mang theo 65 quả pháo nổ, đến quán C1 thuộc tổ dân phố B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh T để bán cho người đàn ông tên M, khi chưa kịp giao dịch mua bán pháo nổ thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 01 thùng catton ký hiệu M4 (bên trong có 6,6 kg pháo nổ);

+ 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS 29K6 - xxxx, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định được chiếc xe là của chị Hoàng Lan P (vợ bị cáo) được chị gái ruột là chị Hoàng Thị T1, sinh năm 1987, Nơi ĐKHKTT: Xóm L sàn, xã L, huyện Đ (tạm trú: số H, T, M, H, Hà Nội) cho để sử dụng từ năm 2022. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội chị P hoàn toàn không biết.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu đen, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị H (mẹ đẻ bị cáo) xác định là của bà H2 mua từ năm 2018 và sau đó không có nhu cầu sử dụng đã cho bị cáo mượn. Tuy nhiên, ngoài lời khai trên không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh.

+ 01 hộp nhựa màu trắng bên trong chứa hạt tinh thể màu vàng đen là cát được niêm phong, ký hiệu C2; 01 thanh gỗ hình trụ màu trắng, hồng, nâu, có kích thước (87x2,1)cm; 01 thanh gỗ màu trắng, xám, hồng, kích thước (82x5,9x1,6)cm, trên thanh gỗ có 07 lỗ hình tròn, hai đầu thanh gỗ có vết vỡ; 01 vật bằng gỗ không rồ hình dạng được cuộn băng dính trên bề mặt; 36 cuộn giấy hình trụ màu đỏ, rỗng ở giữa có cùng kích thước (2,7x4,8)cm được đựng trong hộp catton màu vàng có chữ Cozy; 01 lọ keo 502 vỏ bằng nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; 02 cuộn băng dính màu trắng, xanh có đặc điểm giống nhau; 30 mảnh giấy bản màu đỏ có cùng kích thước (54x12,8)cm; 18 mảnh giấy có cùng kích thước (29x4,5)cm; 02 cuộn giấy hình trụ màu đỏ rỗng ở giữa, một đầu được bịt kín vật chất màu trắng có kích thước lần lượt (7x12,8)cm và (6,8x13)cm.

Hiện toàn bộ số vật chứng trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 108/CT-VKSĐH, ngày 23/8/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh T đã truy tố Bùi Văn L về tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên tòa sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 thanh gỗ hình trụ màu trắng, hồng, nâu, có kích thước (87x2,1)cm; 01 thanh gỗ màu trắng, xám, hồng, kích thước (82x5,9x1,6)cm, trên thanh gỗ có 07 lỗ hình tròn, hai đầu thanh gỗ có vết vỡ; 01 vật bằng gỗ không rồ hình dạng được cuộn băng dính trên bề mặt; 36 cuộn giấy hình trụ màu đỏ, rỗng ở giữa có cùng kích thước (2,7x4,8)cm được đựng trong hộp catton màu vàng có chữ Cozy; 01 lọ keo 502 vỏ bằng nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; 02 cuộn băng dính màu trắng, xanh có đặc điểm giống nhau; 30 mảnh giấy bản màu đỏ có cùng kích thước (54x12,8)cm; 18 mảnh giấy có cùng kích thước (29x4,5)cm; 02 cuộn giấy hình trụ màu đỏ rỗng ở giữa, một đầu được bịt kín vật chất màu trắng có kích thước lần lượt (7x12,8)cm và (6,8x13)cm; 01 hộp nhựa màu trắng bên trong chứa hạt tinh thể màu vàng đen là cát được niêm phong, ký hiệu C2; 01 thùng catton ký hiệu M4 (bên trong có 6,6 kg pháo nổ);

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu đen, đã qua sử dụng.

+ Trả lại cho chị P 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS 29K6-xxxx.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cho bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát, thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, không oan.

Quan điểm bào chữa của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, việc truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; điều luật áp dụng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là hoàn toàn chính xác. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án 24 tháng tù, miễn hình phạt bổ sung và án phí cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án từ khi khởi tố vụ án, điều tra, truy tố: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo, thấy:

Ngày 28/4/2023, tại gia đình Bùi Văn L thuộc xóm B, xã B, huyện Đ, tỉnh T, L đã chế tạo được 71 quả pháo nổ, với tổng khối lượng là 10,1 kg (Mười phẩy một kilogam) nhằm mục đích bán kiếm lời. Đến khoảng 10 giờ 00 phút ngày 29/4/2023, L đang mang 65 quả pháo nổ (có khối lượng: 8,9kg) đến khu vực quán C1 thuộc Tổ dân phố C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh T để bán cho một người tên M thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng. Đến hồi 13 giờ 25 phút, ngày 29/4/2023, Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp đối với Bùi Văn L phát hiện, thu giữ: 06 pháo nổ (có khối lượng 1,2kg); 32,61 gam thuốc pháo, 02 đoạn dây cháy chậm, có kích thước lần lượt là (92 x 0,2)cm, (121 x 0,2) cm và một số vật chứng có liên quan đến việc L dùng để sản xuất pháo nổ với mục đích để bán kiếm lời như trên.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Bùi Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nội dung Điều 190 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nêu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

....

c) Sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;

...” 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng...”.

[3]. Xét tính chất vụ án và hành vi của bị cáo: Tính chất của vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm lưu hành, cấm sử dụng tại Việt Nam, đồng thời gây mất trật tự trị an ở địa phương. Nên cần được xử lý nghiêm, đảm bảo tính răn đe của pháp luật và mang tính phòng ngừa chung.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Nhưng có nhân thân xấu: Ngày 19/4/2021 bị Công an huyện Đ quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chắt ma túy” với số tiền 1.500.000 đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt:

Căn cứ hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, tiền án, tiền sự, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. HĐXX thấy, khi lượng hình cần áp dụng hình phạt tù, buộc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung; tuy nhiên, cũng xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo tốt sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[6]. Vật chứng của vụ án:

+ Đối với: 01 thanh gỗ hình trụ màu trắng, hồng, nâu, có kích thước (87x2,1)cm; 01 thanh gỗ màu trắng, xám, hồng, kích thước (82x5,9x1,6)cm, trên thanh gỗ có 07 lỗ hình tròn, hai đầu thanh gỗ có vết vỡ; 01 vật bằng gỗ không rồ hình dạng được cuộn băng dính trên bề mặt; 36 cuộn giấy hình trụ màu đỏ, rỗng ở giữa có cùng kích thước (2,7x4,8)cm được đựng trong hộp catton màu vàng có chữ Cozy; 01 lọ keo 502 vỏ bằng nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; 02 cuộn băng dính màu trắng, xanh có đặc điểm giống nhau; 30 mảnh giấy bản màu đỏ có cùng kích thước (54x12,8)cm; 18 mảnh giấy có cùng kích thước (29x4,5)cm; 02 cuộn giấy hình trụ màu đỏ rỗng ở giữa, một đầu được bịt kín vật chất màu trắng có kích thước lần lượt (7x12,8)cm và (6,8x13)cm/ 01 hộp nhựa màu trắng bên trong chứa hạt tinh thể màu vàng đen là cát được niêm phong, ký hiệu C2; 01 thùng catton ký hiệu M4 (bên trong có 6,6 kg pháo nổ) là vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với: 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, BKS 29K6-xxxx. Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định đây là xe của chị Hoàng Lan p được chị gái ruột là chị Hoàng Thị T1 cho để sử dụng từ năm 2022, chị P không biết bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội nêu trên nên cần trả lại chiếc xe cho chị P quản lý, sử dụng là phù hợp.

+ Đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu đen, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo và bà Hoàng Thị H xác định là điện thoại bà H cho bị cáo mượn. Tuy nhiên không có bất cứ tài liệu chứng cứ nào chứng minh bà H là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc điện thoại và việc bà H cho bị cáo mượn điện thoại nên cần tịch thu của bị cáo sung quỹ Nhà nước.

[7]. Về án phí: Bị cáo gia đình thuộc diện hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm nên bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9]. Các nội dung có liên quan khác:

+ Về nguồn các hoá chất Kali Clorat (KClO3), Lưu huỳnh (S), L khai mua của một người không quen biết trên mạng Internet, còn các vật dụng khác như Keo 502, màng bọc thực phẩm, giấy nhiều màu, L khai mua của cửa hàng T2 (không nhớ chính xác tên, địa chỉ quán và khi mua cũng không nói cho người bán biết mục đích mua để làm gì) nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không có căn cứ để xem xét, xử lý là phù hợp.

+ Đối với người đàn ông tên M đặt mua pháo nổ của L vào ngày 27/4/2023, L không biết họ tên, địa chỉ, lai lịch chính xác của người này. Do không xác định được lai lịch của người đàn ông này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ không có căn cứ để điều tra, xử lý là phù hợp với quy định.

+ Quá trình L sản xuất và cất giấu pháo nổ ở nơi ở, bà Hoàng Thì H3 (mẹ đẻ của bị cáo đồng thời là chủ hộ) và chị Hoàng Lan P (là vợ của bị cáo) không biết, việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda - Dream, màu nâu, mang BKS: 29K6-xxxx, L dùng để chở pháo nổ đi bán vào ngày 29/4/2023 chị P cũng không biết nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không có căn cứ, điều tra xử lý là phù hợp với quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng cấm”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn L 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/4/2023. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Quyết định tạm giam bị cáo Bùi Văn L 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 thanh gỗ hình trụ màu trắng, hồng, nâu, có kích thước (87x2,1)cm; 01 thanh gỗ màu trắng, xám, hồng, kích thước (82x5,9x1,6)cm, trên thanh gỗ có 07 lỗ hình tròn, hai đầu thanh gỗ có vết vỡ; 01 vật bằng gỗ không rõ hình dạng được cuộn băng dính trên bề mặt;

+ 36 cuộn giấy hình trụ màu đỏ, rỗng ở giữa có cùng kích thước (2,7x4,8)cm được đựng trong hộp catton màu vàng có chữ Cozy;

+ 01 lọ keo 502 vỏ bằng nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; 02 cuộn băng dính màu trắng, xanh có đặc điểm giống nhau;

+ 30 mảnh giấy bản màu đỏ có cùng kích thước (54x12,8)cm; 18 mảnh giấy có cùng kích thước (29x4,5)cm; 02 cuộn giấy hình trụ màu đỏ rỗng ở giữa, một đầu được bịt kín vật chất màu trắng có kích thước lần lượt (7x12,8)cm và (6,8x13)cm;

+ 01 hộp nhựa màu trắng bên trong chứa hạt tinh thể màu vàng đen là cát được niêm phong, ký hiệu C2;

+ 01 thùng catton ký hiệu M4 (bên trong có 6,6 kg pháo nổ);

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu đen, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho chị Hoàng Lan P 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda - Dream, màu nâu, mang BKS: 29K6-xxxx, đã qua sử dụng.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng như mô tả trong Quyết định chuyển vật chứng số 101/QĐ-VKSĐT ngày 23/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ và các biên bản giao nhận vật chứng kèm theo).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Bùi Văn L.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị H, chị Hoàng Lan P báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm số 112/2023/HS-ST

Số hiệu:112/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về