TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 101/2023/HS-PT NGÀY 06/10/2023 VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ
Ngày 06 tháng 10 năm 2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 77/2023/TLPT-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Đinh Thị Thu H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá.
Bị cáo có kháng cáo: Đinh Thị Thu H, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1981 tại: Thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn C, xã X, huyện M, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Cán bộ phòng Tư pháp UBND huyện Minh Hóa; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Xuân N, sinh năm 1950 và con bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1957, có chồng là Nguyễn Thanh T, sinh năm 1982 và 03 người con; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/11/2022, có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nhưng không liên quan đến việc kháng cáo nên Toà án không triệu tập đến phiên toà phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2022, Đinh Thị Thu H là phó Phòng tư pháp của Uỷ Ban nhân dân huyện Minh Hóa, trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình Đinh Thị Thu H đã hai lần nhận tiền hối lộ của người khác trong khi thực hiện nhiệm vụ như sau:
Lần thứ nhất: Vào ngày 29/08/2022, bà Cao Thị M cùng con gái là Cao Thị Kim H đều trú tại xã Hóa Tiến, huyện Minh Hóa đến Phòng tư pháp huyện Minh Hóa gặp Đinh Thị Thu H để nộp hồ sơ đề nghị cải chính thông tin trong giấy khai sinh của Cao Thị Kim H (điều chỉnh thông tin năm sinh của mẹ từ “năm 1975” thành “1977” và điều chỉnh thông tin người đi khai sinh từ “ông nội” thành “ông ngoại”). Tại đây, Mai nộp cho H giấy khai sinh của M và H, sổ hộ khẩu, các giấy tờ tùy thân. Sau khi xem hồ sơ, H nói sai nhiều không làm được và hướng dẫn M về bổ sung thêm giấy tờ nên M và H đi ra ngoài, khi ra đến sân UBND huyện, M gặp một người phụ nữ lạ mặt, qua nói chuyện thì người phụ nữ hướng dẫn cho M phải bỏ 1.000.000 đồng kèm theo hồ sơ đưa cho H thì mới làm được. Nghe vậy, M lấy 1.000.000 đồng bỏ vào hồ sơ rồi quay lại phòng làm việc của H, nhờ H xem lại hồ sơ và trình bày nguyện vọng điều chỉnh sai lệch trong giấy khai sinh để Cao Thị Kim H kết hôn với người nước ngoài. H xem hồ sơ rồi nói với M và H là “trường hợp của H có nhiều thông tin sai lệch khó khăn trong điều chỉnh và phải về UBND xã Hóa Tiến để xác minh lại thông tin”. H nhận hồ sơ rồi H và Mai lấy số điện thoại của nhau, sau đó Mai và Huyền ra về. Khi Mvà H ra về đến cổng UBND huyện Minh Hóa thì H gọi điện cho M nhưng M không nghe, sau đó Mai gọi lại cho H rồi M và H quay lại phòng làm việc của H, H nói “trường hợp của H có nhiều thông tin sai lệch nên muốn làm được phải làm một phong bì 4.000.000 đồng” đưa cho H. Do Mai không có phong bì nên Mai xin H, H đưa cho Mai một phong bì sau đó Mai lấy tiền của mình 3.000.000 đồng bỏ vào phong bì rồi đưa cho H. H làm quy trình tiếp nhận rồi đưa giấy hẹn cho Mai trả kết quả sau 3 ngày làm việc. Đến ngày theo giấy hẹn, Huyền đến gặp H lấy kết quả đã được cải chính. Khoảng một tuần sau, Huyền cùng chồng là người Đài Loan đến gặp H làm thủ tục đăng ký kết hôn. Sau khi được trao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Huyền đưa cho H 1.000.000 đồng.
Lần thứ hai: Vào khoảng đầu tháng 09 năm 2022, Cao Thị L đến phòng Tư pháp huyện Minh Hóa gặp Đinh Thị Thu H tại phòng làm việc, Lợi đưa cho H giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, các giấy tờ tùy thân và trình bày nguyện vọng muốn cải chính dân tộc, sau khi xem hồ sơ, H nói với L là “phải về UBND xã Hóa Tiến để xác minh lại thông tin” và không tiếp nhận hồ sơ nên Lợi ra về. Một vài ngày sau L đến nhà Cao Thị M (là em gái) chơi và kể lại việc đi điều chỉnh dân tộc nhưng chưa làm được thì M bảo “phải đưa tiền cho họ mới làm được”. Đến ngày 16/9/2022 Cao Thị L cùng với con gái là Cao Thị L đến UBND huyện để làm cải chính dân tộc, khi tới L đứng chờ trước sân Ủy ban, còn Lợi vào Phòng Tư pháp gặp H, tại đây L trình bày với H là muốn điều chỉnh lại dân tộc trong giấy khai sinh để làm căn cước công dân và Lợi hỏi H làm thủ tục điều chỉnh dân tộc của Lợi hết mấy tiền, H trả lời “trường hợp của L khó nên L phải đưa cho tôi 5.000.000 đồng mới làm được”, Lợi hỏi H là “ 2.000.000 đồng có làm được không”, H nói “phải đưa đủ 5.000.000 đồng mới làm được”. Nghe vậy Lợi đi ra ngoài hỏi con gái Cao Thị L có tiền cho L mượn 3.000.000 đồng, rồi L cùng L vào phòng gặp H. Tại đây L đưa cho L 3.000.000 đồng, Lợi có sẵn 2.000.000 đồng, tổng cộng là 5.000.000 đồng L trực tiếp đưa cho H, H nhận tiền đếm lại xong thì làm quy trình tiếp nhận hồ sơ và đưa giấy hẹn trả kết quả cho Lợi sau ba ngày. Vài ngày sau H trả kết quả cho Lợi theo đúng yêu cầu của Lợi.
Đến khoảng đầu tháng 10/2022, Cao Thị M và Cao Thị L kể lại sự việc trên cho anh trai là Cao Xuân H nghe, ông H bức xúc nên đã nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu Đinh Thị Thu H trả lại tiền cho M và L. Ngày 31/10/2022, H nhờ em gái là Đinh Thị Hoa H chuyển 5.000.000 đồng vào số tài khoản của Cao Xuân H để trả cho M và L. Số tiền còn lại 4.000.000 đồng nhận từ M và L, và số tiền 1.000.000 đồng Cao Thị Kim H đưa cho H, quá trình điều tra ĐinhThị Thu H đã tự nguyện nộp tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa.
Ngày 03/11/2022, Cao Thị M và Cao Thị L làm đơn tố cáo Đinh Thị Thu H đến Công an huyện Minh Hóa.
Quá trình điều tra. Cơ quan điều tra đã tiến hành sao lưu các file ghi âm có nội dung cuộc hội thoại giữa Đinh Thị Thu H và Cao Xuân Hồng, giữa Đinh Thị Thu H và Cao Thị M, giữa Đinh Thị Thu H và Cao Thị L vào các thiết bị USB. Hiện các USB chứa các dữ liệu đã được niêm phong lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Bản án Hình sự sơ thẩm số 19/2023/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã tuyên bố bị cáo Đinh Thị Thu H phạm tội: “Nhận hối lộ". Áp dụng điểm đ, g khoản 2 điều 354; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Thị Thu H 03 ( ba ) năm tù.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Trong hạn luật định, ngày 25 tháng 7 năm 2023, bị cáo Đinh Thị Thu H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Đinh Thị Thu H khai nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm xét xử, giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy đủ cơ sở kết luận bị cáo Đinh Thị Thu H trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình tại phòng Tư pháp, bị cáo có đã hai lần gây khó khăn đòi và nhận tiền hối lộ của người dân khi đến làm thủ tục cải chính thông tin tư pháp. Cụ thể: Ngày 29/8/2022, Đinh Thị Thu H nhận của bà Cao Thị M số tiền 4.000.000 đồng và ngày 16/9/2022 H nhận của bà Cao Thị L số tiền 5.000.000 đồng để làm cải chính hộ tịch và xác định lại dân tộc theo yêu cầu của bà Mai và bà Lợi với tổng số tiền đã nhận là 9.000.000 đồng. Án sơ thẩm xét xử và kết tội bị cáo phạm tội “Nhận hối lộ” theo điểm đ, g khoản 2 Điều 354 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Căn cứ Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-TANDTC điều kiện để được hưởng án treo đối với tội “Nhận hối lộ” thì người phạm tội không đủ điều kiện để được xét hưởng án treo theo quy định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Toà án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51BLHS để xử phạt bị cáo 03 năm tù là phù hợp.
Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, bị cáo có xuất trình thêm một số tài liệu, theo đó: Trong quá trình công tác, bị cáo đều có thành tích xuất sắc, được tặng kỷ niệm chương “vì sự nghiệp tư pháp”, đạt chiến sỹ thi đua cơ sở năm 2021, giấy khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tấm lòng vàng nhân đạo, gia đình có công với cách mạng. Xét đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Nên Hội đồng xét xử áp dụng chính sách khoan hồng của pháp luật, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo để sửa án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt là thoả đáng.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Bị cáo Đinh thị Thu H kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, xử chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đinh Thị Thu H, sửa phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HSST ngày 13/7/2023 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình:
1. Áp dụng điểm đ, g khoản 2 Điều 354; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự , xử phạt bị cáo Đinh Thị Thu H 2 (hai) năm tù về tội Nhận hối lộ. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.
2. Bị cáo Đinh Thị Thu H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (06/10/2023)
Bản án về tội nhận hối lộ số 101/2023/HS-PT
Số hiệu: | 101/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về