Bản án về tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy số 23/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 867/2023/TLST-HS ngày 30/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6106/2023/QĐXXST-HS ngày 26/12/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Hữu T1; giới tính: Nam; sinh ngày 10/9/1988, tại Thành phố H; nơi đăng ký thường trú: đường A, phường L, thành phố T, Thành phố H; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hữu T4 (chết) và bà Trương Thị L1; chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc T2 (là bị cáo trong vụ án); tiền án: Không;

Tiền sự: Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố H đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng tại Quyết định số 142/2020/QĐ-TA ngày 19/5/2020, chấp hành xong ngày 20/5/2021;

N thân: Tại Bản án số 58/2023/HSST, ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh G xử phạt 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” (Bản án đã có hiệu lực pháp luật).

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 04/01/2023 trong vụ án khác tại tỉnh G; có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc T2; giới tính: Nữ; sinh ngày 21/12/1989, tại Thành phố H; nơi đăng ký thường trú: đường B, phường A, quận D, Thành phố H; chỗ ở: đường A, phường L, thành phố T, Thành phố H; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Phú T5 và bà Nguyễn Thị Ngọc L2; có chồng (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 06/9/2022; có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Trần T3 (tên gọi khác: TL); giới tính: Nam; sinh ngày 26/6/1989, tại Thành phố H; nơi đăng ký thường trú: đường B, phường L, thành phố T, Thành phố H; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Dịch vụ mai táng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Trần Thị X; chung sống như vợ chồng với bà Hoàng Thị Mai L3, có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Không;

Tiền sự: Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 21 tháng tại Quyết định số 360/QĐ-TA ngày 28/12/2019, chấp hành xong ngày 15/9/2021;

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 06/9/2022; có mặt.

- Người bào chữa:

1. Luật sư Hồ Hoài N - Công ty Luật TNHH MTV T, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu T1; có mặt;

2. Luật sư Nguyễn Ngọc T - Văn phòng Luật sư Hồ Trung Hiếu, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 06/9/2022, Công an phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra hành chính nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm kiểm tra trong nhà có Nguyễn Thị Ngọc T2 và Nguyễn Trần T3. Qua kiểm tra, cơ quan Công an phát hiện trên nền nhà tại gác lửng 01 hộp kim loại màu nâu hình chữ nhật có chữ Lotte Cinema bên trong có:

- 01 hộp hình chữ nhật bằng giấy màu xanh đen, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu. Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 160,7172 gam, loại Methamphetamine;

- 03 gói nylon chứa tinh thể không màu. Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 60,3593 gam, loại Methamphetamine;

- 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu vàng: Là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,3815 gam, loại MDMA;

- 01 gói nylon chứa cành, lá cây khô. Kết quả giám định là ma túy, khối lượng 1,1341 gam, loại ADB-Butinaca;

2 - 01 cân điện tử màu đen có ghi chữ POCKET SCALE; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 bình nhựa màu trắng, 01 ống hút nhựa màu trắng được cắt nhọn một đầu, đầu còn lại hàn kín, 01 thìa nhựa màu trắng, 01 ống hút nhựa, 01 cây kéo bằng kim loại, 10 gói nylon loại túi zip rỗng.

Khám xét khẩn cấp nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ bên trong tủ nhựa quần áo có 01 hộp giấy hình trái tim màu đỏ trắng, bên trong hộp giấy có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (tổng khối lượng 1,3434 gam, loại Methamphetamine).

Tổng số ma túy thu giữ là 222,4199 gam Methamphetamine; 0,3815 gam MDMA và 1,1341 gam ADB - Butinaca. Kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 4989/KL-KTHS ngày 12/9/2022 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự - Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh và số 5183/KL-KTHS ngày 14/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Ngọc T2 khai: Nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh của mẹ Nguyễn Trần T3 cho Nguyễn Hữu T1 thuê sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc T2 từ tháng 7/2021. Tại đây, Nguyễn Hữu T1 thường mua ma túy về để sử dụng và bán ma túy cho người khác. Khi có khách đến mua ma túy, Nguyễn Hữu T1 yêu cầu Nguyễn Thị Ngọc T2 mở cửa cho khách vào và canh chừng bên ngoài để Nguyễn Hữu T1 giao dịch mua bán ma túy. Đối với số ma túy cơ quan Công an thu giữ trong nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Ngọc T2 khai nhận là ma túy do Nguyễn Hữu T1 mua về cất giấu tại nhà để bán cho người nghiện. Nguồn gốc số ma túy Nguyễn Hữu T1 mua của ai thì Nguyễn Thị Ngọc T2 không rõ, Nguyễn Hữu T1 không đưa tiền mua bán ma túy cho Nguyễn Thị Ngọc T2 nhưng Nguyễn Hữu T1 cho Nguyễn Thị Ngọc T2 sử dụng ma túy cùng, và lo toàn bộ chi phí ăn ở, sinh hoạt cho Nguyễn Thị Ngọc T2;

Nguyễn Trần T3 khai: Quen biết với Nguyễn Hữu T1 khi cùng cai nghiện tại cơ sở cai nghiện ma túy PV, tỉnh P vào năm 2020. Khi Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2 thuê nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh thì thỉnh thoảng Nguyễn Trần T3 đến chơi và làm phụ việc nhà cho Nguyễn Hữu T1. Nguyễn Hữu T1 không trả công cho Nguyễn Trần T3 nhưng có một vài lần cho Nguyễn Trần T3 ma túy để sử dụng. Ngày 03/9/2022, Nguyễn Hữu T1 giao chìa khóa nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh cho Nguyễn Trần T3. Ngày 04/9/2022, khi Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2 đi ra ngoài, Nguyễn Trần T3 mở cửa vào nhà thì Nguyễn Hữu T1 sử dụng điện thoại của Nguyễn Thị Ngọc T2 gọi và nhắn tin nhờ Nguyễn Trần T3 lấy 03 gói ma túy từ hộp giấy hình trái tim màu đỏ trắng cất giấu vào 01 hộp kim loại màu nâu hình chữ nhật có chữ Lotte Cinema. Nguyễn Trần T3 không biết cụ thể việc Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2 mua bán ma túy.

Sau khi Nguyễn Thị Ngọc T2 và Nguyễn Trần T3 bị bắt giữ, Nguyễn Hữu T1 bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định truy tìm. Quá trình rà soát, phát hiện ngày 12/01/2023, Nguyễn Hữu T1 bị Công an tỉnh G khởi tố bị can, tạm giam để điều tra về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành điều tra, khởi tố Nguyễn Hữu T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Nguyễn Hữu 3 T1 khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Ngọc T2 và Nguyễn Trần T3. Trong thời gian sống cùng Nguyễn Thị Ngọc T2 tại nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, do thiếu tiền chi tiêu nên Nguyễn Hữu T1 nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho các đối tượng nghiện để kiếm lời. Thông qua bạn bè, Nguyễn Hữu T1 biết 01 người đàn ông tên V tại quận S, Thành phố Hồ Chí Minh có bán ma túy. Nguyễn Hữu T1 đã mua ma túy của V và một người đàn ông không biết tên do V giới thiệu được 3 lần, cụ thể:

- Lần 1 và lần 2: Khoảng tháng 7/2022, Nguyễn Hữu T1 mua của V lần 1 là 30 gam ma túy với giá 9.000.000 đồng, lần 2 là 100 gam ma túy với giá 25.000.000 đồng;

- Lần 3: Khoảng tháng 8/2022, Nguyễn Hữu T1 mua của một người đàn ông do V giới thiệu 100 gam ma túy với giá 26.000.000 đồng.

Sau khi mua được ma túy, Nguyễn Hữu T1 mang về nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu, phân chia nhỏ chờ bán cho các đối tượng nghiện. Số ma túy còn lại gồm cỏ Mỹ, thuốc lắc mà Cơ quan Công an khám xét thu giữ trong nhà của Nguyễn Hữu T1 do bạn bè cho Nguyễn Hữu T1 để sử dụng và nếu có ai hỏi mua thì Nguyễn Hữu T1 sẽ bán.

Nguyễn Hữu T1 đã bán ma túy cho 02 người không nhớ tên và lai lịch. Một lần Nguyễn Hữu T1 bán 3 số (khoảng 0,3 gam) ma túy với giá 300.000 đồng, một lần 5 số (khoảng 0,5 gam) ma túy với giá 500.000 đồng.

Nguyễn Thị Ngọc T2 phụ giúp Nguyễn Hữu T1 trong việc mua bán trái phép chất ma túy với vai trò giúp sức bằng cách mở cửa và cảnh giới nhà khi có người đến liên hệ mua ma túy. Còn việc liên hệ với người mua và bán ma túy, giao nhận ma túy, phân chia ma túy, giao nhận tiền mua bán ma túy do Nguyễn Hữu T1 là người trực tiếp thực hiện. Nguyễn Hữu T1 lo tiền nhà, tiền ăn uống và sinh hoạt cho Nguyễn Thị Ngọc T2.

Ngày 04/9/2022, do bà Trần Thị X (mẹ của Nguyễn Trần T3) yêu cầu Nguyễn Hữu T1 trả nhà thuê nhưng vì không có ở nhà nên Nguyễn Hữu T1 đã sử dụng điện thoại của Nguyễn Thị Ngọc T2 thông qua tài khoản Zalo tên “S” nhắn tin cho Nguyễn Trần T3 nhờ Nguyễn Trần T3 lấy ma túy trên gác nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu vào hộp kim loại ở tầng trệt. Đồng thời dọn dẹp đồ đạc của Nguyễn Thị Ngọc T2 và Nguyễn Hữu T1 cùng số ma túy trên gọn lại một chỗ để Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2 chuẩn bị chuyển nhà. Nguyễn Trần T3 không biết và không tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy với Nguyễn Thị Ngọc T2 và Nguyễn Hữu T1.

Đối với người đàn ông tên V là người bán ma túy và các đối tượng mua ma túy của Nguyễn Hữu T1, do Nguyễn Hữu T1 khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xác minh xử lý. Đồng thời chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo Nguyễn Hữu T1 khai mua và bán ma túy nhiều lần, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên không áp dụng tình tiết tăng nặng bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên.

Tại bản Cáo trạng số 419/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 07/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T1 và bị cáo 4 Nguyễn Thị Ngọc T2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, truy tố bị cáo Nguyễn Trần T3 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 58/2023/HSST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Hữu T1 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng;

- Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 từ 18 năm tù đến 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Không phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2;

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Trần T3 từ 10 năm tù đến 12 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Trần T3;

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy bị thu giữ còn lại sau giám định; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước điện thoại thu giữ của các bị cáo; đối với các tang vật còn lại đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu T1 trình bày: Luật sư đồng ý về tội danh và khung hình phạt mà Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về mức hình phạt 20 năm tù và phạt tiền 20 triệu đồng đối với bị cáo là quá cao so với hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ. Ngoài ra, bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo Nguyễn Hữu T1 không có tình tiết tăng nặng, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử dưới khung hình phạt. Về phạt tiền bổ sung, bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có việc làm và không có thu nhập nên đề nghị miễn phạt tiền bổ sung.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 trình bày: Luật sư tham gia vụ án từ khi khởi tố vụ án cho đến nay, do đó Luật sư đồng ý về tội danh và khung hình phạt mà Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính chất, vai 5 trò của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 trong vụ án này, bị cáo sống chung với bị cáo Nguyễn Hữu T1 như vợ chồng, phụ thuộc hoàn toàn vào Nguyễn Hữu T1, việc Nguyễn Hữu T1 mua ma túy của ai và bán ma túy cho ai thì bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 không biết, bị cáo chỉ có hành vi mở cửa và cảnh giới cho Nguyễn Hữu T1. Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự khi đề nghị mức án và không áp dụng phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 là đã khoan hồng và nhân văn để bị cáo có cơ hội sớm trở về nuôi dạy con nhỏ hiện đang nhờ mẹ ruột nuôi dưỡng. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét có mức án phù hợp nhẹ hơn mức đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Hữu T1, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 đồng ý với quan điểm bào chữa của các Luật sư, không bào chữa bổ sung và không tham gia tranh luận; bị cáo Nguyễn Trần T3 không tham gia tranh luận.

Kiểm sát viên đối đáp: Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu T1 cho rằng bị cáo không có tiền sự là không đúng, ngày 15/9/2021 bị cáo mới chấp hành xong cai nghiện ma túy, ngày 06/9/2022 đã tiếp tục phạm tội và bị khởi tố, chưa được xóa nên được coi là có tiền sự. Các ý kiến khác của các Luật sư bào chữa nêu về tình tiết giảm nhẹ áp dụng cho các bị cáo thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Các Luật sư và Kiểm sát viên bảo lưu ý kiến đã trình bày trước phiên tòa, không tranh luận bổ sung.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Hữu T1, Nguyễn Thị Ngọc T2, Nguyễn Trần T3 đã khai nhận về hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, bản kết luận giám định. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Hữu T1 đã có hành vi mua ma túy của đối tượng V không rõ lai lịch, mang về nơi ở tại nhà số 19 đường A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu để bán lại cho người khác, thu lợi bất chính. Nguyễn Thị Ngọc T2 có hành vi giúp sức, mở cửa và cảnh giới cho Nguyễn Hữu T1 khi có khách đến mua ma túy. Nguyễn Trần T3 có hành vi cất giấu ma túy cho Nguyễn Hữu T1 nhưng 6 không biết việc Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2 mua bán ma túy. Cơ quan Công an qua kiểm tra, khám xét bắt quả tang, thu giữ tổng cộng 222,4199 gam Methamphetamine; 0,3815 gam MDMA và 1,1341 gam ADB-Butinaca, đây là số ma túy Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2 cất giấu để bán, trong đó có 03 gói ma túy khối lượng 60,3593 gam Methamphetamine do Nguyễn Trần T3 cất giấu theo yêu cầu của Nguyễn Hữu T1.

[3] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Hữu T1, Nguyễn Thị Ngọc T2 là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Trần T3 là rất nghiêm trọng đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, gieo rắc tệ nạn ma túy, ảnh hưởng đến hoạt động phòng, chống tội phạm về ma túy và đây cũng là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội khác, tội phạm khác. Do đó, cần xử lý nghiêm minh các bị cáo để giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung.

Bị cáo Nguyễn Hữu T1, Nguyễn Thị Ngọc T2 phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” với khối lượng ma túy là 222,4199 gam Methamphetamine, 0,3815g MDMA và 1,1341 gam ADB-Butinaca, thuộc trường hợp “có 02 chất ma túy trở lên” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo Nguyễn Trần T3 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với khối lượng ma túy là 60,3593 g Methamphetamine, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy giữa bị cáo Nguyễn Hữu T1 và Nguyễn Thị Ngọc T2, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 thực hiện với vai trò đồng phạm giúp sức theo sự chỉ đạo và phụ thuộc bị cáo Nguyễn Hữu T1, phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm nên áp dụng Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 so với bị cáo Nguyễn Hữu T1.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hữu T1, Nguyễn Thị Ngọc T2, Nguyễn Trần T3 đều thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt tiền bổ sung: Bị cáo Nguyễn Hữu T1 thực hiện hành mua bán trái phép chất ma túy hưởng lợi, cần thiết áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự phạt tiền đối với bị cáo để nộp ngân sách Nhà nước. Các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 và Nguyễn Trần T3 không hưởng lợi nên không phạt tiền bổ sung đối với các bị cáo.

Ngoài ra, tại Bản án số 58/2023/HSST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, bị cáo không kháng cáo, Bản án đã có hiệu lực pháp luật nên cần áp dụng Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

Từ các phân tích nêu trên, là quan điểm của Hội đồng xét xử đối với các ý kiến tranh luận, đối đáp của các Luật sư, bị cáo và Kiểm sát viên.

[5] Xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với: 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 1”; 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 2”; 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 3”; 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 4” cùng có chữ ký ghi tên của Giám định viên Trần Đình H (PC09), Điều tra viên Đặng Công T (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 hộp kim loại màu nâu hình chữ nhật có chữ Lotte Cinema; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng chai nhựa; 01 thìa nhựa màu trắng; 01 ống nhựa; 01 cây kéo bằng kim loại; 10 túi nylon rỗng; 01 hộp giấy hình trái tim màu đỏ trắng; 01 hộp giấy hình chữ nhật màu xanh đen; 01 áo sơ mi dài tay sọc carô màu trắng đen đã qua sử dụng; 01 áo thun ngắn tay không cổ màu đen có chữ màu trắng phía trước áo; 01 quần dài bằng jean màu xám; 01 quần lửng bằng jean màu xám, là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- Đối với: 01 cân điện tử màu đen ghi chữ “Pocket Scale” thu giữ của bị cáo Nguyễn Hữu T1 và bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 dùng để phân chia ma túy; 01 điện thoại Iphone màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2 đã qua sử dụng, số IMEI: 35392510526xxxx; 01 điện thoại di động OPPO màu xanh, số IMEI 1: 866686057602673, số IMEI 2: 866686057602665 thu giữ của bị cáo Nguyễn Trần T3, liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1: 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 58/2023/HSST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T1 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 30 (ba mươi) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2023.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Hữu T1 10.000.000 (mười triệu) đồng.

2. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T2: 17 (mười bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 06/9/2022.

3. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trần T3: 10 (mười) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày 06/9/2022.

4. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 1”; 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 2”; 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 3”; 01 gói niêm phong ghi chữ “vụ 1063/22 - Thủ Đức, kết luận số 5183, gói số 4” cùng có chữ ký ghi tên của Giám định viên Trần Đình H (PC09), Điều tra viên Đặng Công T (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 hộp kim loại màu nâu hình chữ nhật có chữ Lotte Cinema; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng chai nhựa; 01 thìa nhựa màu trắng; 01 ống nhựa; 01 cây kéo bằng kim loại; 10 túi nylon rỗng; 01 hộp giấy hình trái tim màu đỏ trắng;

01 hộp giấy hình chữ nhật màu xanh đen; 01 áo sơ mi dài tay sọc carô màu trắng đen đã qua sử dụng; 01 áo thun ngắn tay không cổ màu đen có chữ màu trắng phía trước áo; 01 quần dài bằng jean màu xám; 01 quần lửng bằng jean màu xám;

- Tịch thu để nộp ngân sách Nhà nước: 01 cân điện tử màu đen ghi chữ “Pocket Scale”; 01 điện thoại Iphone màu xanh đã qua sử dụng, số IMEI 35392510526xxxx (thực nhận 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu xanh, Imei khay sim: 35392510526xxxx, không kiểm tra đời máy, Imei do không có nguồn điện, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) điện thoại di động OPPO màu xanh, số IMEI 1: 866686057602673, số IMEI 2: 866686057602665 (thực nhận 01 điện thoại di động Oppo màu xanh , không kiểm tra Imei do không có nguồn điện, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong).

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2023/417 ngày 15/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy số 23/2024/HS-ST

Số hiệu:23/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về