Bản án về tội mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 248/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 248/2022/HS-PT NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 10/2022/TLPT-HS ngày 6 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Lê Quốc K.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 243/2021/HS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Quốc K, sinh ngày 12 tháng 8 năm 1987 tại Thành phố H; nơi ĐKTT: 5/7A tổ 54, khu phố 6, thị trấn H, huyện H, Thành phố H; nơi ở: 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn H, huyện H, Thành phố H; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Q và bà Lý Huệ L; có vợ và 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 01/01/2021 (có mặt).

Người bào chữa: Bà Nguyễn Kim L, Luật sư Văn phòng luật sư Nguyễn K thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 01/01/2021, Công an huyện Hóc Môn kiểm tra hành chính nhà số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn H, huyện H là nơi Lê Quốc K thuê trọ. Qua kiểm tra phát hiện tại phòng bên phải từ dưới cầu thang nhìn lên có 04 đối tượng gồm Lê Quốc P, Lê Quốc T, Trần Ánh L, Vũ Thị Lan T1 đang ở trong phòng, thu giữ trên nền nhà 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9649 gam, loại Ketamine; phía trên nệm đặt trong phòng có 01 đĩa màu trắng đựng tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0669 gam, loại Ketamine; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn; 01 thẻ nhựa màu đen có in chữ “CHANEL”.

Kiểm tra phòng bên trái từ dưới cầu thang nhìn lên thì phát hiện bắt quả tang Lê Quốc K đứng ngoài ban công đang có hành vi ném 01 túi nylon màu đen sang mái tôn của nhà kế bên phải. Qua kiểm tra túi nylon màu đen nêu trên thu giữ: 01 túi nylon bên trong chứa nhiều túi nylon rỗng không chứa gì; 01 túi nylon màu đen, bên trong có 13 gói nylon chứa 22,4314 gam Ketamine; 02 gói nylon chứa 0,2556 gam Ketamine; 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xám, có khối lượng 0,6015 gam, loại MDMA; 01 gói nylon, bên trong có: 03 viên nén màu cam hình tròn, khối lượng 0,9085 gam, loại MDMA; 44 viên nén màu hồng, tổng khối lượng 15,3610 gam, loại MDMA; 70 viên nén màu xanh hình tam giác, có tổng khối lượng 31,0204 gam, loại MDMA; 01 gói nylon màu vàng, bên trong có: 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 1,4203 gam, loại Ketamine; 05 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, có tổng khối lượng 54,8359 gam, loại Methamphetamine; 01 cân điện tử và 01 cây kéo.

Tất cả số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 355/KLGĐ-MT ngày 07/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL: 76-77).

Tiếp tục khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Quốc K, thu giữ 01 túi nylon màu đen, bên trong có: 01 khẩu súng bằng kim loại màu đen có in chữ “MP171815884” và “PTB984”; 01 hộp đạn bằng kim loại màu đen (không có đạn); 01 gói nylon màu xanh, bên trong có: 06 viên đạn hình trụ màu xanh; 10 viên đạn bằng kim loại màu vàng; 02 viên đạn kim loại màu đồng; 01 viên đạn màu vàng; 01 khẩu súng màu đen bằng kim loại có in chữ “NO357” (Kết luận giám định số 369/KLGĐ-TT ngày 01/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Tp. Hồ Chí Minh: Đối tượng gửi giám định không phải là vũ khí quân dụng - súng thuộc nhóm công cụ hỗ trợ, đồ chơi nguy hiểm bị cấm - BL 67, 68) Quá trình điều tra, Lê Quốc K khai nhận: Qua bạn bè giới thiệu, khoảng đầu tháng 9/2020, K đi đến một đường hẻm ở khu vực khu phố 7, thị trấn H, huyện H mua ma túy của đối tượng tên “T3” (không rõ lai lịch) gồm: 8.000.000 đồng ma túy đá; 12.000.000 đồng ma túy loại Ketamine và 12.000.000 đồng ma túy thuốc lắc và được “T3” bán cho 03 gói nylon khác nhau chứa ma túy đá, Ketamine và thuốc lắc (không biết cụ thể khối lượng các gói ma túy). Sau khi mua được ma túy, K đem về nhà trọ số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn phân ra thành nhiều gói ma túy nhỏ có khối lượng khác nhau rồi đem cất giấu trong nhà trọ để nếu có ai hỏi mua sẽ bán lại kiếm tiền lời.

Từ khoảng đầu tháng 9/2020 cho đến khi bị bắt (ngày 01/01/2021), K đã 03 lần bán ma túy cho người nghiện, cụ thể như sau:

- Lần 1: Khoảng tháng 10/2020, tại nhà số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, K đã bán cho một người đang ông tên Tân (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy loại Ketamine, có khối lượng khoảng 0,2 gam với giá 1.000.000 đồng;

- Lần 2: Khoảng tháng 11/2020, tại nhà số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, K đã bán cho một người đang ông tên Thảo (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy loại Ketamine, có khối lượng khoảng 0,2 gam với giá 1.000.000 đồng;

- Lần thứ 3 và thứ 4: Khoảng tháng 11/2020, tại nhà số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, K đã 02 lần bán ma túy cho Lê Quốc P và Lê Quốc T (là em ruột của K) với giá 200.000 đồng/lần. Cả 02 lần K đều cho P và T mượn dụng cụ để sử dụng ma túy tại chỗ ở của K.

- Lần thứ 5: Vào ngày 01/01/2021, Lê Quốc P và Lê Quốc T, Vũ Thị Lan T1 (là bạn gái của T) đến nhà K đang ở nhà số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn H, huyện H, TP. HCM chơi. P, T góp mỗi người 200.000 đồng và mua của K 400.000 đồng ma túy loại Ketamine để sử dụng; K lấy 01 gói ma túy Ketamine đổ một ít ma túy (tương ứng với số tiền 400.000 đồng) ra 01 đĩa màu trắng, cung cấp 01 thẻ nhựa, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000đ cuộn tròn cho P, T và T1 sử dụng ma túy. Số ma túy còn lại K để trên nền nhà. Khoảng 07 giờ 00 phút cùng ngày, P rủ Trần Thị Ánh L (là bạn gái của P) đến nhà của K, nhưng L chưa sử dụng ma túy thì bị Công an huyện Hóc Môn kiểm tra bắt quả tang như đã nêu ở trên.

Lê Quốc P và Lê Quốc T khai nhận phù hợp lời khai của Lê Quốc K: Vào tháng 11/2020, P và T đã 02 lần mua ma túy của K và được K cho mượn dụng cụ (đĩa, ống hút, thẻ nhựa) để sử dụng ma túy tại nơi ở của K. Ngày 01/01/2021 P, T và T1 đến nhà K chơi. P và T góp tiền mỗi người 200.000 đồng mua ma túy của K và sử dụng ma túy tại nơi ở của K thì bị kiểm tra, thu giữ số ma túy còn lại trên đĩa chưa sử dụng hết. T khai trong số tiền 200.000 đồng mua ma túy có 100.000 đồng của T1 đưa cho T.

Vũ Thị Lan T1 và Trần Ánh L khai phù hợp với lời khai của P, T và K: Ngày 01/01/2021, T1 cùng P và T đến nhà K chơi. T1 có sử dụng ma túy tại nhà K. T1 không trực tiếp mua ma túy của K, nhưng trước đó có đưa cho T 100.000 đồng. Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 01/01/2021, L đến nhà K chơi, có thấy P, T và T1 sử dụng ma túy, nhưng L không sử dụng, sau đó bị Cơ quan Công an kiểm tra, mời về làm việc.

Vật chứng của vụ án: đã được liệt kê tại biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/285, ngày 17/5/2021 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 243/2021/HS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

Căn cứ điểm h khoản 4 khoản 5 Điều 251 và điểm a điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Xử phạt bị cáo Lê Quốc K 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung là 27 (hai mươi bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2021.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 06/12/2021, bị cáo Lê Quốc K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu: Hành vi của bị cáo Lê Quốc K có tính chất vụ lợi và đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Mức án 27 năm tù, tổng hợp của 02 tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt là tương xứng, không nặng. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về 02 tội danh là “Mua bán trái phép chất ma tuý” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là đúng. Tuy nhiên vị luật sư cho rằng, bị cáo có mẹ mất từ nhỏ nên thiếu đi sự chăm sóc, giáo dục. Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo sớm được chở về với gia đình, chăm sóc cha già.

Lời nói sau cùng bị cáo mong muốn được chấp nhận đơn kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Kháng cáo của bị cáo Lê Quốc K đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên là kháng cáo hợp lệ.

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Quốc K khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định và lời khai của Lê Quốc P, Lê Quốc T và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: K đã 03 lần bán ma túy cho Lê Quốc P, Lê Quốc T đồng thời cung cấp dụng cụ sử dụng ma túy cho P, T sử dụng tại nơi ở của K. Bị bắt quả tang vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 01/01/2021, tại nhà số 110/1D tổ 50, khu phố 6, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn là nơi Lê Quốc K thuê trọ thu giữ của Lê Quốc K và số ma túy đã bán cho Phú và T chưa sử dụng hết tổng cộng 25,1391g Ketamine; 54,8359g Methamphetamine và 47,8914g MDMA cùng các dụng cụ để phân chia, sử dụng ma túy… đồng thời xác định được Lê Quốc P, Lê Quốc T, Vũ Thị Lan T1 mới sử dụng ma túy tại nơi ở của K. Vì vậy, Lê Quốc K phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy là 25,1391g Ketamine; 54,8359g Methamphetamine và 47,8914g MDMA và hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Với các hành vi này, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo Lê Quốc K về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ.

Hành vi của bị cao là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình, nhưng vì động cơ tư lợi đã mua ma túy của đối tượng Tư (không rõ lai lịch) để bán cho người khác, thu lợi bất chính. Đồng thời cung cấp dụng cụ sử dụng ma túy cho người khác sử dụng tại nơi ở của mình, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó mức án 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” mà Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt đối với bị cáo Lê Quốc K là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào khác nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về đơn kháng cáo của bị cáo.

[2] Quan điểm bào chữa cho bị cáo của vị Luật sư không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Quốc K phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Quốc K. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 243/2021/HS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm h khoản 4 khoản 5 Điều 251 và điểm a điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Lê Quốc K 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt chung là 27 (hai mươi bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2021.

[2] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị co1 hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Quốc K phải chịu 200.000 đồng.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 248/2022/HS-PT

Số hiệu:248/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về