Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 63/2022/HSST NGÀY 04/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022; Quyết định Hoãn phiên tòa số: 54/QĐ-TA ngày 04/3/2022 và số: 62/QĐ-TA ngày 24/3/2022 đối với các bị cáo:

1. Vì Văn C; sinh năm 1971 tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản C1x, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Lào; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Vì Văn Ch và bà Lò Thị N; bị cáo có vợ là Cà Thị L và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2010, bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La xử phạt 60 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/5/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Sộng Dạ S; sinh năm 1968 tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Sộng A D (đã chết) và bà Lầu Thị S; bị cáo có vợ là Giàng Thị Nh và 06 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. Sộng A D; sinh năm 1985 tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Sộng Xái V và bà Vàng Thị N1; bị cáo có vợ là Lầu Thị Đ và 06 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Vì Văn C: Luật sư Trần Bích L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Sộng Dạ S: Luật sư Đèo Văn H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Sộng A D: Trợ giúp viên pháp lý Đỗ Văn T, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người phiên dịch cho bị cáo Sộng Dạ S: Anh Tếnh Lao D, sinh năm 2002, dân tộc Mông, Trú tại: Thôn B, xã CM, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 10 phút ngày 05/5/2021, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại bản C1x, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang Vì Văn C đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy tại nhà ở của mình. Vật chứng thu giữ: 02 túi nilon bên trong chứa các viên nén màu hồng (Vì Văn C khai là hồng phiến vừa mua để sử dụng và bán kiếm lời).

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vì Văn C vào 10 giờ 20 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp thu giữ: 09 túi nilon bên trong chứa các viên nén màu hồng (Vì Văn C khai là hồng phiến) Ngày 06/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp, thành lập Hội đồng mở niêm phong cân tịnh, xác định khối lượng, trích mẫu trưng cầu giám định chất ma túy vật chứng thu giữ của Vì Văn C.

Số vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang: 02 túi ni lon bên trong chứa 395 viên nén màu hồng, có tổng khối lượng 39,92 gam, trích lấy mỗi túi 05 viên nén màu hồng, tổng cộng là 10 viên có khối lượng 1,0 gam để giám định chất ma túy, ký hiệu C1 và C2.

Số vật chứng bị thu giữ khi khám xét khẩn cấp: 09 túi ni lon bên trong chứa 1.556 viên nén màu hồng, có tổng khối lượng 151,80 gam, trích lấy mỗi túi 05 viên nén màu hồng, tổng cộng là 45 viên có khối lượng 4,34 gam để giám định chất ma túy, ký hiệu C3 đến C11.

Kết luận giám định số: 947 ngày 09/5/2021 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu C1 đên C11 đều là ma túy, Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của các mẫu gửi giám định là 5,34 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 191,72 gam; Loại Methamphetamine.

- Hồi 09 giờ 10 phút, ngày 27/5/2021, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đối với Sộng Dạ S, trú tại bản P, xã ML, huyện Sốp Cộp, đang có hành vi: Cất giữ trái phép chất ma túy tại nhà. Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon bên trong chứa các viên nén màu hồng (S khai là hồng phiến mua để sử dụng) và 01 tẩu hút tự chế đế sử dụng ma túy tống hợp.

Ngày 29/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp thành lập Hội đồng mở niêm phong cân tịnh, xác định khối lượng, trích mẫu trưng cầu giám định chất ma túy đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, vật chứng thu giữ của Sộng Dạ S gồm: 01 túi ni lon bên trong chứa 55 viên nén màu hồng, có tổng khối lượng 4,95 gam, trích lấy toàn bộ 55 viên nén màu hồng, có khối lượng 4,95 gam để giám định chất ma túy, ký hiệu S.

Kết luận giám định số: 540/GĐ-PC09, ngày 29/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu S là ma túy, Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 4,95 gam.

Khối lượng vật chứng thu giữ là 4,95 gam; Loại Methamphetamine.

Mở rộng điều tra, cùng ngày 27/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Sộng A D, trú tại: Bản P, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La về hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra:

Bị cáo Vì Văn C khai nhận: Ngày 05/5/2021, Vì Văn C đang ở nhà, thì có một người đàn ông dân tộc Mông (không quen biết), đến nhà tự giới thiệu nhà ở bản Huổi Pá, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La và bán cho C 02 túi hồng phiến với giá 2.200.000 đồng, mua bán xong người đàn ông bỏ đi, còn C đang kiểm đếm số hồng phiến vừa mua được ở trong nhà, mục đích đế sử dụng và bán kiếm lời thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang, thu giữ toàn bộ hồng phiến.

Bị cáo Sộng Dạ S khai nhận: Ngày 26/5/2021 Sộng Dạ S khi đi chăn thả gia súc tại khu vực đường biên giới Việt Nam - Lào thuộc địa phận xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, S đã đổi 01 can thuốc trừ cỏ (giá 400.000 đồng) lấy 01 gói ni lon bên trong có 56 viên hồng phiến, của một người đàn ông dân tộc Mông (không quen biết), mang về nhà cất giấu vào dưới giường ngủ gia đình (không nói cho vợ, con biết) để sử dụng. Ngày 27/5/2021 S lấy 01 viên hồng phiến ra sử dụng, thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang, Vật chứng thu giữ: 55 viên hồng phiến và 01 tẩu hút tự chế.

Ngoài các hành vi nêu trên, các bị cáo Vì Văn C, Sộng A D, Sộng Dạ S cùng khai nhận:

Vì Văn C, Sộng A D, Sộng Dạ S là các đối tượng nghiện ma túy. C biết S có ma túy bán và biết D ở cùng bản và có quan hệ họ hàng với S nên có thể mua nợ được hồng phiến của S. Do đó, C đã nhiều lần bảo D đến nhà S mua nợ hồng phiến. Trong khoảng tháng 4 năm 2021, theo yêu cầu của C, D đã 05 lần đến nhà Sộng Dạ S mua nợ hồng phiến của S với số lượng khoảng 50 viên hồng phiến để sử dụng.

Ngày 29/4/2021, D đến nhà C yêu cầu C đưa tiền để D thanh toán số ma túy đã mua nợ của S. Do chưa có tiền trả cho S, C bảo D mang xe máy Wave RSX BKS 26F1-121.21 của C đến nhà S để trả nợ và mua thêm ma túy về sử dụng. D đồng ý và mang chiếc xe máy của C cùng giấy tờ xe về nhà D.

Khoảng 06 giờ ngày 30/4/2021, D đi xe máy đến nhà S, D nói với S hiện nay C không có tiền trả nợ tiền mua ma túy của S nên có lấy chiếc xe để trả nợ và mua thêm ma túy. Qua trao đổi, S và D thống nhất sẽ cùng nhau mang chiếc xe máy của C đến khu vực đường biên giới Việt Nam - Lào, thuộc xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La để đổi lấy ma túy. Thống nhất xong, D điều khiển xe máy chở S đi cùng, đến khu vực đường biên giới Việt Nam - Lào thuộc địa phận xã ML, thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông (không quen biết) đang đứng ở ven đường. D dừng xe, S đến gặp người đàn ông đó tự giới thiệu tên Vạ A N3, ở bản Ca Lăng, huyện Mường Ét, tỉnh Hủa Phăn, Lào; qua trao đổi N nhất trí đổi 11 túi hồng phiến lấy chiếc xe máy BKS 26F1-121.21, ngoài ra N3 hứa sẽ cho S thêm 2.000.000 đồng. Sau khi thống nhất, N3 bảo S và D đợi để N3 đi lấy hồng phiến, nói xong N3 điều khiển xe máy đi đến khoảng 10 giờ cùng ngày quay lại đưa cho S 01 túi ni lon đã bọc kín và nói bên trong có 11 túi hồng phiến; Còn 2.000.000 đồng, N3 hẹn S khoảng một tuần sau quay lại địa điểm này gặp N3 để nhận tiền, S đồng ý. Mua bán xong người đàn ông bỏ đi, còn S và D mang theo 11 túi hồng phiến đi theo đường cũ về nhà. Trên đường đi S và D thống nhất, S sẽ cất giấu 11 túi hồng phiến này tại nhà của S, khi nào C cần lấy ma túy, thì D sẽ đến nhà S để trả cho C.

Khoảng 20 giờ, ngày 30/4/2021, C đến nhà D hỏi về việc đổi xe máy lấy ma túy, D nói S đã đổi chiếc xe máy của C được 11 túi hồng phiến, C bảo D đến nhà S lấy ma túy mang về cho C. D đi đến nhà S nói đến lấy ma túy trả cho C, S đi vào buồng ngủ lấy 01 túi ni lon bên trong có 11 túi hồng phiến đưa cho D mang về nhà đưa cho C nhận số ma túy trên không kiểm đếm; về đến nhà C mở túi ni lon ra kiểm tra thấy bên trong có 11 túi hồng phiến, C cất giấu 08 túi hồng phiến vào nơi để chạn đựng bát của gia đình và 03 túi hồng phiến C cất giấu vào dưới giường ngủ (không nói cho vợ con biết) mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Trong khoảng thời gian từ ngày 30/4/2021 đến ngày 04/5/2021, C đã lấy số hồng phiến cất giấu ở giường ngủ để sử dụng và nhiều lần bán cho Vì Văn Cx, Lò Văn T, Lò Văn B Lò Văn D1, Vì Văn Th với tổng số lượng 158 viên hồng phiến được 3.940.000 đồng. Tính đến thời điểm bị bắt giữ (ngày 05/5/2021), C đã sử dụng và bán hết 2,5 túi hồng phiến, tiền bán hồng phiến C đã sử dụng chi tiêu hết; Số ma túy (hồng phiến) còn lại đã bị Cơ quan công an thu giữ trong quá trình khám xét nơi ở của Vì Văn C.

Về Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trong vụ án gồm:

+ 02 túi ma túy thu giữ trên tay của Vì Văn C - C khai nhận mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể, chỉ nghe nói ở bản Huổi Pá, ML, Sốp Cộp. Do vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh.

+ 09 túi ma túy thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Vì Văn C - Vì Văn C, Sộng A D, Sộng Dạ S khai nhận là số ma túy S đã dùng xe máy của C đổi với một người đàn ông dân tộc Mông tên Vạ A N, trú tại bản Ca Lăng, Mường Ét, Hủa Phăn, Lào. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La đã có công văn đề nghị đến Công an huyện Mường Ét, Hủa Phăn, Lào điều tra, xác minh làm rõ đối với Vạ A N có địa chỉ trên và chiếc xe máy, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo pháp luật của Lào.

+ 01 túi ma túy thu giữ của Sộng Dạ S - S khai mua của người đàn ông dân tộc Mông Lào không quen biết, không biết tên tuổi, địa chỉ. Do vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh.

Đối với các đối tượng Vì Văn Cương, Lò Văn Tinh, Lò Văn Bun Lò Văn Dọn, Vì Văn Thương mà Vì Văn C khai đã bán ma túy, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh. Kết quả: Vì Văn Cx, Lò Văn B, Lò Văn T khai nhận có mua ma túy của C và đã sử dụng hết, còn Lò Văn D và Vì Văn Th không xác định được do vắng mặt tại nơi cư trú. Do đó Cơ quan điều tra đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với Vì Văn Cx, Lò Văn B, Lò Văn T theo quy định của pháp luật.

Do có hành vi nêu trên, tại cáo trạng số 155/CT-VKS-P1 ngày 29/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Vì Văn C, Sộng A D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố Sộng Dạ S về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên toà:

- Các bị cáo Vì Văn C, Sộng A D, Sộng Dạ S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng nêu, các bị cáo không khai báo gì thêm.

- Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và Điều luật áp dụng đối với các bị cáo và đề nghị:

+ Tuyên bố các bị cáo: Vì Văn C, Sộng A D phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, Tuyên bố bị cáo Sộng Dạ S phạm hai tội: tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

+ Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vì Văn C 20 năm tù.

+ Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Sộng A D 20 năm tù.

+ Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 55 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Sộng Dạ S 20 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 02 đến 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Sộng Dạ S phải chấp hành chung cho cả 02 tội là 22 đến 23 năm tù.

+ Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

+ Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 186,38 gam Methamphetamine còn lại sau trích mẫu giám định + 2,55 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại và các vỏ niêm phong ban đầu không còn giá trị sử dụng; 01 chiếc tẩu tự chế; 02 túi ni lon màu xanh.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Vì Văn C: Nhất trí với tội danh, điều luật Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố đối với bị cáo và nội dung bản luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và điều kiện bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn để xem xét về mức hình phạt và miễn án phí cho bị cáo.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo cho bị cáo Sộng A D: Nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo tham gia đồng phạm với vai trò giúp sức, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, bị cáo thật thà khai báo để xem xét về mức hình phạt từ 17 đến 18 năm tù và miễn án phí cho bị cáo.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo cho bị cáo Sộng Dạ S: Nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo tham gia đồng phạm với vai trò giúp sức, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, không biết chữ, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị cáo thật thà khai báo để xem xét về hình phạt mức dưới khung hình phạt và miễn án phí cho bị cáo.

- Các bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa của người bào chữa và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên Công an huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

* Hành vi phạm tội của của Vì Văn C:

Ngày 05/5/2021, Vì Văn C mua và cất giữ trái phép 39,92 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng và bán kiếm lời thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Trước đó, ngày 30/4/2021, Vì Văn C đưa xe máy Biển kiểm soát 26F1 - 121.21 của mình cho Sộng A D đem trả nợ tiền mua hồng phiến và đổi lấy 11 túi hồng phiến của Sộng Dạ N. Vì Văn C đã sử dụng và bán kiếm lời một phần số ma túy trên, phần còn lại cất giấu tại nhà với mục đích sử dụng và bán kiếm lời, ngày 05/5/2021 bị cơ quan chức năng phát hiện, thu giữ, cân tịnh và giám định là 151,80 gam Methamphetamine. Như vậy trong khoảng thời gian từ 30/4/2021 đến 05/5/2021, Vì Văn C đã 02 lần mua bán trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 191,72 gam Methamphetamine.

* Hành vi phạm tội của Sộng Dạ S:

Ngày 25/5/2021, Sộng Dạ S khi đang có hành vi cất giữ trái phép 4,95 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Trước đó, ngày 30/4/2021, Sộng Dạ S đã cùng Sộng A D sử dụng chiếc xe máy Biển kiểm soát 26F1 -121.21 của Vì Văn C di chuyển đến đến khu vực đường biên giới Việt Nam - Lào thuộc địa phận xã ML đổi lấy 11 túi hồng phiến đem về giao cho Vì Văn C; mục đích để S thu được tiền bán ma túy trước đó cho Sộng A D, Vì Văn C và hưởng 2.000.000 đồng tiền công từ người bán ma túy. Khối lượng ma túy mà Sộng Dạ S đã mua bán trái phép là 151,80 gam Methamphetamine.

* Hành vi phạm tội của Sộng A D:

Ngày 30/4/2021, Sộng A D sau khi tiếp nhận ý chí của Vì Văn C, đã điều khiển chiếc xe máy Biển kiểm soát 26F1 -121.21 của C đến nhà và thỏa thuận thống nhất cùng Sộng Dạ S di chuyển xe máy của C đến đến khu vực đường biên giới Việt Nam - Lào thuộc địa phận xã ML đổi lấy 11 túi hồng phiến đem về giao cho Vì Văn C; mục đích để được sử dụng ma túy cùng C và được C hỗ trợ tiền khi có việc gia đình. Khối lượng ma túy mà Sộng A D đã mua bán trái phép là 151,80 gam Methamphetamine.

Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vì Văn C lập hồi 08 giờ 10 phút ngày 05/5/2021 tại bản Cống, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Vật chứng thu giữ: 02 túi nilon màu xanh chứa 395 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 39,92 gam; Biên bản khám xét lập hồi 10 giờ 20 phút ngày 05/5/2021 tại nhà Vì Văn C phát hiện thu giữ của C 09 túi gồm (02 túi màu hồng và 07 túi màu xanh) chứa các viên nén màu hồng có tổng khối lượng 151,80 gam. C khai là hồng phiến mua về sử dụng và bán kiếm lời.

- Kết luận giám định số: 947 ngày 09/5/2021 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 191,72 gam; Loại Methamphetamine” (số ma túy thu giữ của Vì Văn C).

Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Sộng Dạ S lập hồi 09 giờ 10 phút ngày 27/5/2021 tại Bản P, xã ML, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon màu xanh chứa 55 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 4,95 gam; S khai là hồng phiến mua về sử dụng.

Kết luận giám định số: 540/GĐ-PC09, ngày 29/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: “Khối lượng vật chứng thu giữ là 4,95 gam; Loại Methamphetamine”. (Số ma túy thu giữ của Sộng Dạ S).

- Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc các bị cáo bị bắt giữ cùng vật chứng thu giữ.

Từ các căn cứ như đã nêu trên, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Vì Văn C, Sộng A D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Sộng Dạ S phạm hai tội: Tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 251 và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ngoài các hành vi nêu trên, các bị cáo Vì Văn C, Sộng A D, Sộng Dạ S còn thừa nhận - Trong tháng 4 năm 2021, D đã 05 lần mua nợ của S tổng số là 50 viên hồng phiến theo yêu cầu của C, số ma túy trên Vì Văn C đã sử dụng hết. Các bị cáo không nhớ rõ, cụ thể thời gian mua bán từng lần, không thu được vật chứng nên không đủ căn cứ quy kết, xử lý các bị cáo về hành vi này nhưng đây cũng là một tình tiết để xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội khi lượng hình đối với các bị cáo.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo Vì Văn C đã có hành vi mua bán trái phép 191,72 gam Methamphetamine; Các bị cáo Sộng A D, Sộng Dạ S có hành vi mua bán 151,80gam Methamphetamine. Hành vi trên đây của các bị cáo Vì Văn C, Sộng Dạ S, Sộng A D đã vi phạm tình tiết định khung “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng 100 gam trở lên’’ quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự; Khung hình phạt có mức hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.

Bị cáo Sộng Dạ S còn có hành vi tàng trữ trái phép 4,95 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù.

[4]. Xét về vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo trong vụ án.

Bị cáo Vì Văn C một mình thực hiện hành vi mua, cất giữ trái phép 39,92 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời; bị cáo Sộng Dạ S một mình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 4,95 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Do đó, bị cáo C, bị cáo S phải chịu trách nhiệm độc lập về hành vi phạm tội và khối lượng ma túy nêu trên.

Bị cáo Vì Văn C đồng phạm cùng Sộng A D, cùng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán 151,80 gam Methamphetamine. Trong đó, bị cáo C là người khởi xướng việc sử dụng chiếc xe máy Biển kiểm soát 26F1-121.21 là tài sản của mình giao cho bị cáo D đem đổi ma túy về sử dụng và bán kiếm lời (D là người thực hành); Bị cáo Sộng A D đồng phạm cùng Sộng Dạ S - bị cáo D tiếp nhận ý chí của C, trực tiếp trao đổi thống nhất cùng với Sộng Dạ S đem xe máy của C đổi lấy ma túy của đối tượng người Mông Lào mang về cho Vì Văn C - Như vậy, các bị cáo có vai trò trách nhiệm ngang nhau trong đồng phạm.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm phạm luật, nhưng do hám lời và để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng lớn. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mang tính nguy hiểm cao, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn và các tội phạm khác. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo tính giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

[5]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu, đều là đối tượng sử dụng ma túy; Bị cáo Vì Văn C từng bị xét xử về hành vi liên quan đến chất ma túy (đã được xóa án tích).

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vì Văn C đã 02 lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Vì Văn C, Sộng Dạ S, Sộng A D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Vì Văn C, Sộng Dạ S khai ra đồng phạm, tích cực giúp đỡ các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra vụ việc, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Vì Văn C có bố mẹ đẻ là người có công với cách mạng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự song xét thấy bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[7]. Về mức hình phạt và tổng hợp hình phạt:

Đề nghị của Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo Vì Văn C, Sộng A D là phù hợp, có căn cứ.

Đối với bị cáo Sộng Dạ S phạm hai tội là tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với tội Mua bán trái phép chất ma túy

- Bị cáo được áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s và điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, áp dụng quy định tại khoản 1 điều 54 Bộ luật Hình sự Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt về tội Mua bán trái phép chất ma túy cho bị cáo.

Áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội” để tổng hợp hình phạt với hình phạt về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo.

[8]. Đối với các đối tượng khác liên quan đến vụ án.

Đối với đối tượng là người đàn ông bán 02 túi hồng phiến cho Vì Văn C và người đàn ông đã bán 01 túi hồng phiến cho Sộng Dạ S: Các bị cáo đều không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể của những người này. Ngoài lời khai của các bị cáo, không còn chứng cứ nào khác nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, điều tra.

Đối với đối tượng Vạ A N, ở bản Ca Lăng, huyện Mường Ét, tỉnh Hủa Phăn, Lào mà Sộng Dạ S khai là người S đổi xe máy để lấy ma túy. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La đã có công văn đề nghị đến Công an huyện Mường Ét, Hủa Phăn, Lào điều tra, xác minh làm rõ đối với Vạ A N có địa chỉ trên và chiếc xe máy, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo pháp luật của Lào.

Đối với các đối tượng Vì Văn Cx, Lò Văn T, Lò Văn B, Lò Văn D, Vì Văn Th mà Vì Văn C khai đã bán ma túy. Quá trình điều tra, Vì Văn Cx, Lò Văn Bx, Lò Văn T khai nhận có mua ma túy của C và đã sử dụng hết, còn Lò Văn D và Vì Văn Th không xác định được. Do đó Cơ quan điều tra đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với Vì Văn Cx, Lò Văn B, Lò Văn T, việc xử phạt hành chính đối với các đối tượng trên là đúng quy định của pháp luật.

[9]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 186,38 gam Methamphetamine còn lại sau trích mẫu giám định và 2,55 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại là mặt hàng nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng với các vỏ niêm phong ban đầu không còn giá trị sử dụng; 01 chiếc tẩu tự chế; 02 túi ni lon màu xanh.

[10] Về án phí: Theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ thì các bị cáo Vì Văn C, Sộng Dạ S, Sộng A D đều là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì các bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 58; Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố:

1.1. Các bị cáo Vì Văn C, Sộng A D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

1.2. Bị cáo Sộng Dạ S phạm hai tội: Tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt:

2.1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vì Văn C 20 (Hai mươi) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 05/5/2021).

2.2.Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Sộng A D 20 (Hai mươi) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 27/05/2021).

2.3. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; Điểm s, t khoản 1 Điều 51; Khoản 1 điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Sộng Dạ S 18 (Mười tám) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy;

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Sộng Dạ S 03 (Ba) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo Sộng Dạ S phải chấp hành hình phạt chung là 21 (Hai mươi mốt) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 27/5/2021).

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự - Tịch thu tiêu hủy:

- 186,38 gam Methamphetamine còn lại sau khi trích mẫu giám định cùng 01 phong bì niêm phong vật chứng bán đầu đã bóc mở + vỏ niêm phong hộp giấy ban đầu + 01 hộp nhựa hình chữ nhật + 11 túi nilon màu xanh và màu hồng được đựng trong 01 (một) hộp vật chứng còn nguyên niêm phong;

- 2,55 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) chiếc phong bì do bưu điện phát hành còn nguyên niêm phong;

- 01 vỏ nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu được đựng trong 01 (một) chiếc phong bì do Công an huyện Sốp Cộp phát hành, còn nguyên niêm phong;

- 02 (hai) túi nilon màu xanh, đã qua sử dụng, khi bắt quả tang Vì Văn C phạm tội;

- 01 (một) chiếc tẩu tự chế bằng chai nhựa, trên thân chai nhựa có gắn một ống bằng tre, tẩu đã qua sử dụng, thu giữ khi bắt quả tang Sộng Dạ S phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án - Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Vì Văn C, Sộng Dạ S, Sộng A D.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 04/4/2022)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2022/HSST

Số hiệu:63/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về