Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/HSST-QĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phan Hùng C, sinh năm 1997, tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Khu phố T, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Chí T và bà Lâm Thị Kiều O;

Tiền án: Ngày 07/5/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST. Bị cáo đã đóng án phí ngày 15/7/2019, chấp hành xong hình phạt ngày 11/6/2020.

Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2021 cho đến nay. Có mặt.

2. Thái Công D, sinh năm 1996, tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái Hoàng M và bà Võ Thị Hồng Đ; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 28/8/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng. Chấp hành xong vào ngày 24/4/2019.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2021 cho đến nay. Có mặt.

3. Lê Thanh T, sinh năm 1990, tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Khu phố K, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ văn hoá:

06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Huỳnh Ngọc Ả; có vợ tên Ngô Thị N và 01 con chung sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 28/5/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên), tỉnh Bình Dương xử phạt 45 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2013/HS-ST. Bị cáo đã đóng án phí ngày 28/6/2013, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2015.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2021 cho đến nay. Có mặt.

4. Trương Văn T, sinh năm 1991, tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp B, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn S và bà Huỳnh Ngọc D; có vợ tên Nguyễn Lâm Quỳnh H và 02 con chung lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2021 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trần Văn P, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

2. Ông Mai Văn B, sinh năm 1971; nơi cư trú: Thôn X, xã N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Hoàng V và ông Trần Thanh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Hùng C, Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D có mối quan hệ là bạn với nhau và đều là đối tượng nghiện ma tuý.

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 28/9/2021, Trương Văn T điều khiển xe mô tô hiệu WAVE (Forlist), biển số 36M3-2204 đến nhà của Lê Thanh T thuộc khu phố K, phường T, thị xã T để chơi. Sau đó, T hỏi T chỗ bán ma tuý về để mua mang về sử dụng thì T gọi điện thoại cho Phan Hùng C (Tuấn mở loa ngoài điện thoại để cho T cùng nghe) và hỏi C có ma túy bán không, thì C trả lời có bán ma túy. T nói T hỏi 25 số ma túy giá bao nhiêu, C trả lời là 2.600.000 đồng và T đồng ý mua. Do T chỉ còn 1.000.000 đồng nên T đưa cho T mượn thêm 1.600.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 36M3-2204 chở T đi đến nhà của C thuộc phường T, thị xã T để mua ma túy. Khi đi đến chốt kiểm dịch thuộc phường T, thị xã T do không qua chốt được nên T gọi điện thoại cho C nói C chỉ đường cho T đi đến nhà C, thì C bảo T gọi điện cho Thái Công D và nói D dẫn đường đến khu vực bờ suối, thuộc khu phố Tân Hóa, phường Vĩnh Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên sẽ có người mang ma túy đến (C nói T là Cg vẫn bán ma túy cho D tại đây). Lúc này, T gọi điện thoại cho D và bảo D dẫn T đi đến khu vực bờ suối, thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên để mua ma túy của C và khi mua được ma túy sẽ cùng nhau sử dụng chung thì D đồng ý. T điều khiển xe mô tô chở T đi đến nhà của D thuộc khu phố Hoá Nhựt, phường Tân Vĩnh Hiệp và chở D cùng đến khu vực bờ suối thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên. Khi đi đến nơi, T gọi điện thoại cho C thì C nói T bảo D đi đến chỗ cũ C vẫn bán ma tuý cho D rồi C tắt máy. T đưa cho D số tiền là 2.600.000 đồng và nói D đi lấy ma túy. D đi bộ về hướng nghĩa trang thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên (được khoảng 1000 mét) thì gặp đối tượng tên Đ (không rõ lai lịch). Tại đây, Đ đưa cho D 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, D đưa cho Đ số tiền 2.600.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D lén lấy 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng cất vào trong nón kết đội trên đầu (với mục đích D cất giấu để sử dụng riêng) rồi đi lại chỗ của T và T. Khi đến nơi D đưa 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng cho T rồi T đưa lại cho T. T lấy cất giấu vào trong túi quần bên trái. Sau đó, T điều khiển xe chở T và D đi tìm chỗ để cùng nhau sử dụng ma túy. Khi đi đến đoạn đường ĐX 02 thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì bị Tổ tuần tra Công an phường Tân Vĩnh Hiệp phát hiện T, T và D có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra.

Qua kiểm tra phát hiện ở túi quần bên trái của T có 01 (một) túi nylon miệng kéo dính có chứa chất tinh thể màu trắng và ở trong nón kết của D đang đội trên đầu có 01 (một) gói ny lon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng. T, T và D khai nhận: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy do T, T nhờ D đi mua của C về sử dụng; 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của D là ma túy D cất giấu để sử dụng riêng. Lực lượng tuần tra tiến hành niêm phong đối với số ma tuý trên và đưa T, T và D đến trụ sở Công an phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã thị xã Tân Uyên để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nylon miệng kéo dính có chứa chất tinh thể màu trắng (M2), 01 gói ny lon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng (M1), 01 cái nón kết màu xanh, 01 xe mô tô biển số 36M3-2204.

Công an phường phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên lập hồ sơ ban đầu và báo cáo vụ việc đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương theo thẩm quyền.

Trên cơ sở lời khai của T, T và D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phan Hùng C tại Tổ A, khu phố T, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương phát hiện và thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Glaxy J7; 01 điện thoại Nokia màu xanh.

Quá trình điều tra C khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 28/9/2021, C gọi điện thoại qua mạng xã hội (mạng Zalo) cho đối tượng tên H (không rõ lai lịch) và hỏi mua 5.300.000 đồng ma túy thì H đồng ý và hẹn C đi đến ngã 3 thành phố mới thuộc phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên để lấy. Khi đến nơi H đưa cho C 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (là ma túy), C đưa cho H 5.300.000 đồng. Sau đó, C cất vào túi quần rồi đi bộ về ki ốt của bạn tên T (không rõ lai lịch) do T thuê để chơi. Khi đi đến nơi C gặp T và Đ, C lấy một ít ma túy mới mua được của H cùng sử dụng với T và Đ. Sau khi sử dụng ma túy xong, C cất giấu số ma túy còn lại ở vị trí bên trong lỗ gạch phía trước ki ot của T (với mục đích bán lại cho các đối tượng sử dụng ma túy, Cường không nói cho T và Đ biết), sau đó, C đi bộ về nhà. Đến khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, Dh gọi điện thoại cho C và nói C bán cho D 1.400.000 đồng ma túy, C đồng ý và bảo D đi đến vị trí bờ suối thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên sẽ có người đưa ma túy cho D. Lúc này, Cg đi bộ đến ki ot của T, lấy 01 túi nylon có chứa ma túy ở trong lỗ gạch phía trước ki ot của T rồi phân ra 01 túi nylon khác để giao cho D, số còn lại tiếp tục giấu ở vị trí lỗ gạch phía trước ki ot của T và bảo Đ cầm 01 túi nylon bên trong có chứa ma túy đi đến khu vực bờ suối thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên đưa cho D và lấy số tiền 1.400.000 đồng. Khoảng 18 giờ cùng ngày, Đ về lại ki ốt T và đưa cho C số tiền 1.400.000 đồng rồi C đi về nhà. Đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày T gọi điện thoại cho C hỏi mua 2.600.000 đồng ma túy, C đồng ý và bảo T đi đến nhà C để lấy, lúc này C tiếp tục đi bộ đến ki ốt T để lấy số ma túy còn lại bán cho T. Lúc này, T gọi điện thoại cho C chỉ đường đến nhà C, do trên đường đi T gặp chốt kiểm dịch. C bảo T gọi điện cho D và bảo D dẫn đường đến khu vực bờ suối thuộc phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên sẽ có người đưa ma túy cho D rồi D đưa lại cho T, T đồng ý.

Sau đó, C đưa cho Đ: 01 túi nylon miệng kéo dính có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 gói ny lon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng và nói Đ đi đến khu vực bờ suối thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên đưa cho D và lấy lại số tiền 2.600.000 đồng. Ngoài ra ngày 27/9/2021, C còn bán cho D 800.000 đồng ma túy.

Bản kết luận giám định số 652/MT-PC09 ngày 05/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng 0,2209 gam (M1); 2,1465 gam (M2), loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS.TU ngày 13/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Hùng C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015; truy tố các bị cáo Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

+ Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Hùng C từ 08 năm đến 09 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Lê Thanh T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; xử phạt bị cáo Trương Văn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Thái Công D từ 03 năm đến 04 năm tù.

+ Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên;

Tịch thu, tiêu hủy 02 bì thư niêm phong, ký hiệu 652/PC09 (M1, M2), có chữ ký của Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D; cán bộ niêm phong Đỗ Trung H, Mai Thanh L; dấu đỏ của Công an phường Tân Vĩnh Hiệp và dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 652/MT-PC09 ngày 0/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và 01 nón kết màu xanh - đen.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 màu trắng; 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ; 01 điện thoại di động không nhãn mác màu vàng đen; 01 điện thoại di động Nokia 1133 màu đen.

Trả lại cho bị cáo Phan Hùng C 01 điện thoại di động Nokia 1010 màu xanh.

Xe mô tô biển số 36M3 - 2204, do ông Mai Văn B đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Quá trình điều tra, ông B khai nhận đã bán cho ông Trần Văn P. Ông P khai nhận, ngày 28/9/2021, ông cho Trần Văn T mượn chiếc xe trên để đi công việc, việc T sử dụng xe để làm phương tiện đi mua ma túy thì ông P không biết. Ngày 22/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 04 trả lại xe 36M3 - 2204 cho ông P.

Buộc bị cáo C nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 150.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.

- Các bị cáo Phan Hùng C, Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo cơ hội sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Phan Hùng C, Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét và kết luận giám định. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 27/9/2021 đến ngày 28/9/2021, tại khu vực bờ suối thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị cáo Phan Hùng C đã nhiều lần có hành vi mua bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine cho Thái Công D, Lê Thanh T và Trương Văn T để thu lợi bất chính với số tiền 150.000 đồng. Hành vi của bị cáo Phan Hùng C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Ngày 28/9/2021, tại đoạn đường ĐX02 thuộc khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị cáo Thái Công D có hành vi tàng trữ 2,3674 gam ma túy loại Methamphetamine; bị cáo Trương Văn T và Lê Thanh T có hành vi tàng trữ 2,1465 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo Thái Công D, Trương Văn T, Lê Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy. Bị cáo C nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo D, T, T nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nhưng vì muốn có ma túy sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về đồng phạm: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T là người chủ động hỏi mua ma túy, bị cáo T là người trực liên hệ với C để mua ma túy, bị cáo D là người trực tiếp đi nhận ma túy. Do đó, vai trò của các bị cáo trong vụ án là ngang nhau. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Trương Văn T có nhân thân tốt; các bị cáo Phan Hùng C, Lê Thanh T và Thái Công D có nhân thân xấu từng bị xử phạt tù và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện ý thức của các bị cáo xem thường pháp luật nên cần quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, nhân thân của các bị cáo.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phan Hùng C, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày 07/5/2019, chưa được xóa án tích lại phạm tội, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[9] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.

[10] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

+ Đối với 02 bì thư niêm phong, ký hiệu 652/PC09 (M1, M2), có chữ ký của Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D; cán bộ niêm phong Đỗ Trung H, Mai Thanh L; dấu đỏ của Công an phường Tân Vĩnh Hiệp và dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 652/MT-PC09 ngày 0/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và 01 nón kết màu xanh – đen là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 màu trắng – Đen, Imei1 352808092221878, Imei2 352809092221876 thu giữ của Phan Hùng C;

01 điện thoại di động OPPO màu đỏ, bị 02 vết nứt màn hình, gắn sim số 0948618001 thu giữ của Thái Công D; 01 điện thoại di động không nhãn mác màu vàng đen, bị bể màn hình, gắn sim số 0362305035 thu giữ của Lê Thanh T;

01 điện thoại di động Nokia 1133 màu đen, imei1 354877081806427, imei2 354877081806435, gắn sim số 0937482025 thu giữ của Trương Văn T các bị cáo sử dụng các điện thoại trên để liên lạc mua, bán ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 điện thoại di động Nokia 1010 màu xanh, số imei 356744098927410 thu giữ của bị cáo Phan Hùng C, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Cường.

+ Buộc bị cáo C nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 150.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với đối tượng tên Đ, T có hành vi giúp cho C bán ma túy cho D, T, T; đối tượng tên H bán ma túy cho C hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau.

[12] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Hùng C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố các bị cáo Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

1.1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Phan Hùng C 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/9/2021.

1.2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Thanh T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.

1.3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Thái Công D 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.

1.4. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trương Văn T 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bì thư niêm phong, ký hiệu 652/PC09 (M1, M2), có chữ ký của Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D; cán bộ niêm phong Đỗ Trung H, Mai Thanh L; dấu đỏ của Công an phường Tân Vĩnh Hiệp và dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 652/MT-PC09 ngày 0/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và 01 nón kết màu xanh - đen.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 màu trắng – Đen, Imei1 352808092221878, Imei2 352809092221876; 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ, bị 02 vết nứt màn hình, gắn sim số 0948618011; 01 điện thoại di động không nhãn mác màu vàng đen, bị bể màn hình, gắn sim số 0362305035; 01 điện thoại di động Nokia 1133 màu đen, imei1 354877081806427, imei2 354877081806435, gắn sim số 0937482025.

- Trả lại cho bị cáo Phan Hùng C 01 điện thoại di động Nokia 1010 màu xanh, số imei 356944098927410.

- Buộc bị cáo Phan Hùng C nộp số tiền 150.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) 3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Phan Hùng C, Trương Văn T, Lê Thanh T và Thái Công D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về