Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1549/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phạm Thanh T1, sinh ngày 26/8/1989 tại An Nhơn, Bình Định; nơi ĐKHKTT: thôn T, xã K, huyện H, tỉnh Kon Tum; nơi ở hiện tại: 297/03 V, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới T2h: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn M, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1950; vợ: Đinh Hải Th, sinh năm 1990 (đã ly hôn); con: 01 người sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 01/3/2022 bị Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn tuyên phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 24/9/2021 đến ngày 12/01/2022, chưa chấp hành bản án. Bị cáo bị bắt, tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 15/3/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bùi Thế L, sinh ngày 31/01/1993 tại An Nhơn, Bình Định; nơi ĐKHKTT:

123 Phạm Văn Đồng, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Định; nơi ở hiện tại: 15 S, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới T2h: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn C (chết) và bà Diệp Thị Ánh T, sinh năm 1970; vợ: Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1997; con: có 1 con sinh tháng 7/2022; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/3/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Trịnh Hưng T2 (tên gọi khác: Bi), sinh ngày 07/3/1995 tại An Nhơn, Bình Định; nơi ĐKHKTT: khu vực B, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định; nơi ở hiện tại: khu vực T, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: kinh; giới T2h: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Vĩnh T, sinh năm 1971 và bà Hà Thị Minh T, sinh năm 1973; vợ: Nguyễn Thị Bích Ch, sinh năm 1991; con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/3/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Hữu T3, sinh năm 1989; địa chỉ: số 47 L, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 14/3/2022, Phạm Thanh T1 và Bùi Thế L đến phòng trọ của Trịnh Hưng T2 chơi. Tại đây, cả ba rủ nhau cùng sử dụng ma túy. T1 và T2 không có tiền, L có 1.000.000 đồng, nên L bảo T1 liên hệ mua 1.000.000 đồng ma túy đá về sử dụng. T1 điện thoại liên lạc với một người tên thường gọi là “Thiên Cá Hố” (không rõ nhân thân lai lịch, ở thành phố Quy Nhơn, quen biết với T1 ngoài xã hội) qua ứng dụng Zalo rồi đưa điện thoại cho L. L hỏi “Thiên Cá Hố” mua 1.000.000 đồng ma túy đá thì “Thiên Cá Hố” đồng ý và hẹn đến cầu Hà Thanh 3, thuộc phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn để giao dịch. T1 điều khiển xe mô tô BKS 77L1 – 401.13 chở L đi xuống địa điểm đã hẹn. Đến nơi, L được một nam thanh niên (không rõ đặc điểm, nhân thân lai lịch) đưa cho một gói thuốc JET bên trong có ma túy, L đưa 1.000.000 đồng cho nam thanh niên đó. T1 điều khiển xe mô tô chở L về lại phòng trọ của T2. Trên đường đi, L ngồi phía sau xé một mẫu giấy bạc trong gói thuốc JET rồi mở gói ma túy vừa mua đổ một nửa vào tờ giấy bạc rồi cất vào trong túi quần, bỏ phần ma túy còn lại trong gói thuốc JET cầm trên tay. Sau khi về đến phòng trọ của T2, T2 lấy 01 “nỏ” tự chế (công cụ sử dụng ma túy), L đổ gói ma túy cất trong gói thuốc JET vào 01 bì ny lông rồi đổ một phần ma túy từ bì ny lông này vào trong “nỏ”, phần còn lại trong bì ny lông L bỏ trên thùng giấy phía góc tường rồi cùng với T1, T2 sử dụng. Sau khi sử dụng hết ma túy trong “nỏ”, T1 và L về nhà ngủ. T2 dọn dẹp “nỏ”, phát hiện gói ma túy còn lại L để trên thùng giấy nên đem tất cả cất vào phòng ngủ. Về đến nhà, L lấy gói ma túy cất trong túi quần trước đó ra giấu vào trong thanh sắt trên cửa ra vào rồi đi ngủ. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 15/3/2022, T1 nhắn tin cho Nguyễn Hữu T3 (thường gọi là Roi) hỏi xin card điện thoại. Do bị T1 làm phiền khi đang ngủ, T3 nói với T1 nếu có ma túy thì chuẩn bị một “cái 5” (500.000 đồng) ma túy đá đưa cho một người em của T3 tên H để lấy 500.000 đồng, địa điểm giao tại ngã ba Đập Đá (ngã ba giao nhau giữa đường Huỳnh Đăng Thơ và đường Hồng Lĩnh) rồi cho số điện thoại của Công an phường Đập Đá để T1 liên lạc nhằm mục đích để T1 không làm phiền mình nữa rồi đi ngủ. T1 nhắn tin cho L nói L lấy “cái 5” ma túy để đi đưa cho một người bạn. L bảo T1 đến nhà L để lấy ma túy. Sau khi thống nhất xong, T1 điều khiển xe mô tô 77L1 – 401.13 đi đến nhà L, L chỉ cho T1 gói ma túy giấu trên cánh cửa, T1 lấy gói ma túy bỏ vào trong 01 bao thuốc JET kẹp dưới dép rồi điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn. Đến nơi, trong lúc T1 lấy gói ma túy ra bỏ xuống đất thì bị Tổ công tác Công an phường Đập Đá trên đường đi tuần tra phát hiện, bắt giữ Phạm Thanh T1 và thu giữ bao thuốc lá JET bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu. Trịnh Hưng T2 đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT 01 bì ny lông kích thước (10 x 5,5)cm bên trong có chứa các hạt tinh thể không màu và 01 “nỏ” tự chế.

Kết quả kiểm tra chất ma túy Phạm Thanh T1, Trịnh Hưng T2 và Bùi Thế L dương T2h với chất ma túy, loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số 88/KL-KTHS ngày 16/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu đựng bên trong 01 (một) vỏ bao thuốc lá “JET” (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1611 gam là (loại): Methamphetamine.

Kết luận giám định số 89/KL-KTHS ngày 17/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu đựng bên trong 01 (một) bì ny lông kích thước (10x5,5)cm (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1263 gam là (loại): Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục của Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Tại bản Cáo trạng số 33/QĐ-VKSAN ngày 26 tháng 8 năm 2022 Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn đã truy tố các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, truy tố các bị cáo Trịnh Hưng T2, Bùi Thế L tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L, Trịnh Hưng T2 không có khiếu nại gì về hành vi và Quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, thành khẩn khai nhận T1 bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, về điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thanh T1 từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tổng hợp hình phạt với Bản án số 22/2022/HS-ST ngày 01/3/2022 của Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thế L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tổng hợp hình phạt đối với hai tội.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Hưng T2 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định” bên trong có: vỏ, bao bì, vỏ bao thuốc lá “JET” đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0958 gam mẫu A còn lại sau giám định”;

+ 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định” bên trong có: vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0645 gam mẫu A còn lại sau giám định”;

+ 01 (một) ống thủy tinh một đầu uốn cong dạng hình cầu, đầu kia có gắn 01 ống hút nhựa màu xanh da trời; phần thân giữa ống thủy tinh có gắn 01 nắp nhựa màu trắng và 01 ống hút nhựa màu đỏ trắng;

- Tịch thu sung công quỹ: 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng (đã qua sử dụng), có số IMEI: 355383070852927;

- Giao 01 (một) xe máy nhãn hiệu “HONDA AIRBLADE” biển số 77L1 – 401.13 cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã An Nhơn tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã An Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của bị cáo Phạm Thanh T1, bị cáo Bùi Thế L, bị cáo Trịnh Hưng T2 trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hoàn T1 phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, lời khai người làm chứng đã có đủ căn cứ xác định hành vi phạm tội từng bị cáo như sau:

[2.1] Khoảng 20 giờ ngày 14/3/2022, Phạm Thanh T1 và Bùi Thế L mua của đối tượng có tài khoản zalo là “Thiên Cá Hố” một lượng ma túy đá đựng trong gói thuốc lá JET. Trên đường về phòng trọ, Bùi Thế L đã lấy một nửa số ma túy này bỏ trong mẫu giấy bạc cất giấu vào túi quần. Sau khi cùng nhau sử dụng ma túy, Bùi Thế L đã mang số ma túy cất trong túi quần về cất giấu trên thanh sắt ở cửa ra vào nhà mình.

[2.2] Sau khi cùng bị cáo Bùi Thế L, bị cáo Phạm Thanh T1 sử dụng ma túy, bị cáo Trịnh Hưng T2 phát hiện số ma túy còn lại chưa sử dụng hết trong bì ny lông để trên thùng giấy ở góc phòng, bị cáo Trịnh Hưng T2 mang vào cất giấu trong phòng ngủ. Khi biết bị cáo Bùi Thế L bị bắt giữ, bị cáo Trịnh Hưng T2 đã giao nộp cho Cơ quan điều tra bì ny lông chứa ma túy này. Kết luận giám định số 89/KL-KTHS ngày 17/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu đựng trong bì ny lông là ma túy, có khối lượng 0,1263 gam loại Methamphetamine.

[2.3] Khoảng 02 giờ ngày 15/3/2022, khi được Nguyễn Hữu Tuấn chỉ địa điểm để bán ma túy, bị cáo Phạm Thanh T1 đã điện thoại cho bị cáo Bùi Thế L hỏi lấy ma túy để bán. Bị cáo Bùi Thế L đồng ý và bảo bị cáo Phạm Thanh T1 đến nhà để lấy số ma túy đựng trong gói thuốc lá JET đang cất giấu trên thanh sắt ở cửa ra vào nhà mình mang đi bán. Tại địa điểm đã hẹn để bán ma túy, bị cáo Phạm Thanh T1 bị bắt giữ cùng với tang vật. Kết luận giám định số 88/KL-KTHS ngày 16/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu đựng trong vỏ bao thuốc lá “JET” là ma túy, có khối lượng 0,1611 gam loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, hành vi cất giấu khối lượng 0,1611 gam ma túy loại Methamphetamine bị cáo Bùi Thế L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra với hành vi đưa 0,1611 gam ma túy loại Methamphetamine cho bị cáo Phạm Thanh T1 đi tiêu thụ, bị cáo Bùi Thế L còn phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Hành vi mang 0,1611 gam ma túy loại Methamphetamine đi tiêu thụ của bị cáo Phạm Thanh T1 đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Hành vi cất giấu 0,1263 gam ma túy loại Methamphetamine của bị cáo Trịnh Hưng T2 đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi nêu trên của các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L, Trịnh Hưng T2 là nguy hiểm cho xã hội , đã xâm pham đên chinh sach đôc quyên quan ly c ủa Nha nươc vê chât ma tuy , góp phần làm mất ổn định tình hình an ninh trât tư tai đia phương nơi xảy ra vụ án. Các bị cáo biết rõ việc mua bán và sử dụng ma túy là một trong nhựng nguyên nhân chính làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị của đất nước, là nguồn gốc làm băng hoại đạo đức xã hội. Chính vì thế, Nhà nước và pháp luật đã nghiêm cấm các hành vi mua bán, sử dụng, vận chuyển, tàng trữ trái phép ma túy và xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm này. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xư ly nghiêm các bị cáo băng phap luâ t hinh sư, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục, đồng thời cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L, Trịnh Hưng T2 được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định” bên trong có: vỏ, bao bì, vỏ bao thuốc lá “JET” đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0958 gam còn lại sau giám định” là ma túy loại Methamphetamine; 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định” bên trong có: vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0645 gam còn lại sau giám định” là ma túy loại Methamphetamine; 01 (một) ống thủy tinh một đầu uốn cong dạng hình cầu, đầu kia có gắn 01 ống hút nhựa màu xanh da trời; phần thân giữa ống thủy tinh có gắn 01 nắp nhựa màu trắng và 01 ống hút nhựa màu đỏ trắng dùng để sử dụng ma túy. Các vật chứng ma túy này Nhà nước cấm lưu hành và là công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng (đã qua sử dụng), có số IMEI: 355383070852927 là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu “HONDA AIRBLADE” biển số 77L1 – 401.13 (biển số giả) có số máy JF46E-4130209, số khung RLHJE4608RY559188 mà bị cáo Phạm Thanh T1 sử dụng làm phương tiện phạm tội hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được chủ sở hữu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật dân sự trong thời hạn 01 năm kể từ ngày thông báo tìm kiếm chủ sở hữu mà không xác định được chủ sở hữu thì tài sản sẽ sung quỹ nhà nước.

[7] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L, Trịnh Hưng T2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.

[8] Bùi Thế L và Phạm Thanh T1 khai mua ma túy của người tên “Thiên Cá Hố”. Quá trình điều tra không xác định nhân thân, lai lịch của “Thiên Cá Hố”, Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục xác minh và khi có kết quả sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Thanh T1;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Thế L;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trịnh Hưng T2;

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 228 Bộ luật dân sự;

Căn cứ các Điều 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; các bị cáo Trịnh Hưng T2, Bùi Thế L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T1 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, buộc bị cáo Phạm Thanh T1 phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được T2h từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/3/2022, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 24/9/2021 đến ngày 12/01/2022.

3. Xử phạt bị cáo Bùi Thế L 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo Bùi Thế L phải chịu hình phạt chung của hai tội là 03 (ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù T2h từ ngày tạm giam 22/3/2022.

4. Xử phạt bị cáo Trịnh Hưng T2 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù T2h từ ngày tạm giam 22/3/2022.

5. Về xử lý vật chứng:

5.1. Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định” bên trong có: vỏ, bao bì, vỏ bao thuốc lá “JET” đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 0,0958 gam mẫu A còn lại sau giám định”; 01 (Một) bì thư dán kín niêm phong: dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định” bên trong có: vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định;

0,0645 gam mẫu A còn lại sau giám định”; 01 (một) ống thủy tinh một đầu uốn cong dạng hình cầu, đầu kia có gắn 01 ống hút nhựa màu xanh da trời; phần thân giữa ống thủy tinh có gắn 01 nắp nhựa màu trắng và 01 ống hút nhựa màu đỏ trắng.

5.2. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng (đã qua sử dụng), có số IMEI: 355383070852927.

5.3. Giao Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã An Nhơn tiếp tục xác minh chủ sở hữu xe mô tô nhãn hiệu “HONDA AIRBLADE” biển số 77L1 – 401.13 (biển số giả) có số máy JF46E-4130209, số khung RLHJE4608RY559188. Trong thời hạn 01 năm theo quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật dân sự mà không xác định được chủ sở hữu tài sản thì sẽ sung công quỹ nhà nước.

(Hiện các vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã An Nhơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/8/2022) 6. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Phạm Thanh T1, Bùi Thế L, Trịnh Hưng T2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng.

7. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về