Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 272/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 272/2021/HS-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 269/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 269/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức L - Sinh năm 1990; Nơi cư trú: Số 33 ngõ 204, Tổ 25 K, phường Đ, quận H, Thành phố H; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn B; Con bà: Cung Thị M; Có vợ là Nguyễn Hoàng T và có 02 con, sinh năm 2019 và sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Tiền sự: Ngày 08/10/2006, bị Công an quận Hoàng Mai xử lý hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích” (Ngoài thời hiệu);

- Tiền án:

Ngày 09/9/2008, bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chống người thi hành công vụ” (Bản án hình sự sơ thẩm số 309/2008/HSST ngày 09/9/2008 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai); đã được xóa án tích;

Ngày 29/7/2009, bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 54 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 309/2008/HSST ngày 09/9/2008 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, buộc phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 62 tháng tù (Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2009/HSST ngày 29/7/2009 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng); đã được xóa án tích;

Bị cáo bị tạm giữ ngày 28/6/2021; Tạm giam ngày 07/7/2021 (Số giam: 3594A2/5); Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an TP. Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị C - Sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT: thôn S, xã C, huyện L, tỉnh H; Chỗ ở: Số 29 ngõ 2 Đ. Tổ 4, phường T, quận H, Thành phố H; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T1; Con bà Nguyễn Thị Đ (Đã chết); Có chồng là Tạ T2 và có 01 con sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 21/11/2012, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xử phạt 32 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bán hình sự sơ thẩm số 310/2012/HSST ngày 21/11/2012), đã được xóa án tích;

Bị tạm giữ ngày 29/6/2021; Tạm giam ngày 07/7/2021 (Số giam:

3651A2/M2); Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an TP.

Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 35 phút ngày 27/6/2021, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận Hoàn Kiếm trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba Phủ Doãn – Ngõ Huyện, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội phát hiện Nguyễn Đức L đi xuống từ xe ô tô taxi Grab nhãn hiệu Kia Morning màu xanh, BKS: 30G - 982.99 đang dừng đỗ ở lòng đường rồi đi bộ vào trong Ngõ Huyện, có biểu hiện nghi vấn nên tổ công tác tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L khai đã cất giấu ma túy trong xe ô tô Grab nêu trên. Tổ công tác đã đưa L ra xe ô tô phát hiện người đàn ông tên Cung Trọng H (Sinh năm 1980; Nơi cư trú: Số 202 ngõ chợ K, phường T, quận Đ, H) là người lái xe. Tại chỗ L đã chỉ ra vị trí cất giấu ma túy tại khe trong xe ô tô phía bên chân trái ghế phụ chỗ L ngồi có 02 túi ni lông màu trắng, kích thước mỗi túi khoảng 2x3 cm đều chứa tinh thể màu trắng. L khai nhận tinh thể màu trắng bên trong 02 túi ni lông đều là ma túy “đá” của L mua của Nguyễn Thị C ở ngõ 2 phố Đ, phường Đ, quận H, H với giá 500.000 đồng mang theo để bán kiếm lời. Sau đó, lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật đồng thời đưa L, H cùng tang vật thu giữ về trụ sở Công an phường Hàng Trống để làm rõ.

Thu giữ của Nguyễn Đức L: 02 túi ni lông màu trắng, kích thước mỗi túi khoảng 2x3 cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động kiểu dáng REALME màu xanh, kèm 01 SIM số 0965749290 (BL: 29) Thu giữ của Cung Trọng H: 01 điện thoại di động kiểu dáng iPhone màu đen, kèm 01 SIM số 0889388880; 01 xe ô tô nhãn hiệu kiểu dáng KIA màu xanh, BKS: 30G - 982.99, số khung: 122328, số máy: 003500 (BL: 163) Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức L tại 33 ngõ 204 tổ 27 (số mới tổ 25) phường Đ, quận H, H không phát hiện, thu giữ gì.

Cơ quan điều tra – Công an quận Hoàn Kiếm đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Đức L chỉ địa điểm mua bán ma túy, L xác định được đối tượng đã bán 02 túi ma túy Methamphetamine cho L là Nguyễn Thị C – tên gọi khác là H2.

Ngày 28/6/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị C tại số 29 ngõ 2 Đ, Tổ 4 T, quận H, Hà Nội thu giữ:

- 01 thùng tôn nhỏ kích thước 20x25x40 cm bên trong có:

+ 70.000.000 đồng tiền Việt Nam;

+ 22.000.000 đồng tiền Việt Nam;

+ 01 CMND mang tên Nguyễn Thị C (Sinh năm 1988; ĐKHKTT: S, C, L, H) được cất trong 01 ví da màu đen.

- 01 ví da màu hồng bên trong có:

+ 17.000.000 đồng tiền Việt Nam;

+ 03 ĐTDĐ gồm 01 ĐTDĐ Samsung màu đen có sim 1: 0961144858, sim 2: 0878381988; 01 ĐTDĐ có sim: 0946676072; 01 ĐTDĐ màu đen có sim 0984870796.

- 01 cân điện tử màu trắng kích thước khoảng 20x17x4 cm;

- 01 lọ Canxi nano hình trụ tròn bên trong có 01 túi ni lông nhựa màu đen kích thước 2x4 cm;

- 01 ví da nhỏ màu đỏ kích thước 4x6 cm chứa 01 túi ni lông dạng thảo mộc;

- 01 máy iPad màu trắng;

- 01 cóong thủy tinh đã qua sử dụng;

- 01 hộp bánh vỏ bằng sắt đường kính 35 cm bên trong có 03 túi bột màu vàng, đỏ, xanh và 01 cục sắt đặc đường kính 4 cm có hình trái tim.

Tại Bản kết luận giám định số 5413/KLGĐ - PC09 ngày 05/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi ni lông thu giữ của Nguyễn Đức L đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,651 gam (BL: 42) Tại Bản kết luận giám định số 5415/KLGĐ- PC09 ngày 05/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận tang vật thu giữ của Nguyễn Thị C:

- Thảo mộc khô bên trong 01 túi ni lông là Cần sa, khối lượng: 0,141 gam - Chất dẻo màu đen (dạng nhựa thực vật) bên trong 01 túi ni lông là Thuốc phiện, khối lượng: 3,605 gam.

- 01 coóng thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine.

- 01 cân điện tử màu trắng không dính chất ma túy.

- Chất bột màu xanh bên trong 01 túi ni lông không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 325,317 gam.

- Chất bột màu vàng bên trong 01 túi ni lông không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 484,888 gam.

- Chất bột màu đỏ bên trong 01 túi ni lông không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 422,506 gam.

- 01 cục sắt ở giữa có lỗ hình trái tim không dính chất ma túy (BL: 41) Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đức L khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 ngày 27/6/2021, L đang ở nhà thì có một nam thanh niên sử dụng số điện thoại 087825560 gọi vào số 0965749290 của L hỏi mua 06 viên thuốc lắc và 01 chỉ “Ke”, L đồng ý bán và báo giá 5.500.000 đồng. Nam thanh niên đồng ý, L yêu cầu phải đưa tiền trước thì được hẹn đến địa chỉ số 33 Ngõ Huyện, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội để lấy tiền. Sau đó, L lại được bạn xã hội có tên nick Zalo là “Minh Đoàn” liên lạc quan mạng xã hội Zalo hỏi mua 300.000 đồng tiền ma túy đá. Do L đã có sẵn 02 túi ni lông chứa ma túy đá L mua từ trước vào ngày 24/6/2021 của một người phụ nữ có tên là “Hải” khoảng 40 tuổi nhà ở ngõ 2 phố Đ, phường Đ, quận H, Hà Nội với giá 500.000 đồng, L đồng ý bán ma túy “đá” cho “Minh Đoàn” và hẹn địa chỉ giao dịch tại khu vực Cầu Lủ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Sau khi có hai người khách hỏi mua ma túy, L đã gọi điện cho Cung Trọng H là lái xe ô tô Grab để đón L đến khu vực Ngõ Huyện, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khi L ngồi tại ghế phụ trong xe ô tô Grab của H, L đã cất giấu 02 túi ni lông màu trắng, kích thước mỗi túi khoảng 2x3 cm đều chứa ma túy “đá” tại khe trong xe ô tô phía bên chân trái ghế phụ chỗ L ngồi. Khi H chở L đến khu vực ngã ba Phủ Doãn – Ngõ Huyện, L yêu cầu H dừng xe ở lòng đường, L đi bộ vào Ngõ Huyện thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ như nêu trên. Cung Trọng H không biết gì về việc L cất giấu ma túy và đang đi bán ma túy cho khách.

Ngoài ra, tại Cơ quan điều tra ban đầu Nguyễn Đức L còn khai đã nhiều lần mua ma túy của Nguyễn Thị C và thanh toán bằng hình thức chuyển khoản.

Cơ quan điều tra đã tiến hành sao kê toàn bộ giao dịch từ số tài khoản của L và Cải, các giao dịch thể hiện việc chuyển tiền giữa L và Cải nhưng không có nội dung nào liên quan đến việc mua bán ma túy. Sau đó, Nguyễn Đức L thay đổi lời khai, số tiền L chuyển cho C là tiền trả nợ, không phải là tiền mua bán ma túy, lý do L thay đổi lời khai vì nghĩ C là người đã báo để lực lượng Công an bắt L nên đã khai như thế.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị C khai nhận: Qua quan hệ xã hội, Cải có quen biết với Yến nhà ở khu vực Định Công, sử dụng số điện thoại: 0944049289 và Nguyễn Đức L, sử dụng số điện thoại: 0965749290, cả hai đều cùng sử dụng ma túy đá. Khoảng 22 giờ 00 ngày 24/6/2021, L đến nhờ Cải mua hộ 02 túi ma túy “đá”. Khi đó Cải có 02 túi ma túy “đá” nhỏ, do L nài nỉ nên Cải đã bán cho L với giá 250.000 đồng/túi và L đưa cho Cải 500.000 đồng (Cải mua với giá 100.000 đồng/01 túi của 01 người đàn ông không quen biết ở đường Giải Phóng, bán cho L thu lời 300.000 đồng). Địa điểm giao ma túy tại trước cửa nhà Cải và lần đầu Cải bán ma túy cho L. Số thuốc phiện thu được tại nhà Cải là của 01 người bạn trên Hòa Bình cho Cải vào khoảng ngày 26/5/2021 với mục đích sử dụng để chữa bệnh. Số tiền chuyển khoản giữa L và Cải là tiền L trả nợ. Về những đồ vật, tài sản bị thu giữ, Cải khai: 109.000.000 đồng là tiền của gia đình Cải bán hàng tạp hóa hàng ngày, trong đó có 500.000 đồng là tiền Cải bán ma túy cho Nguyễn Đức L. Điện thoại, Ipad là của Cải dùng để gọi điện thoại cho người thân. Cân điện tử màu trắng Cải dùng để cân đo hàng hóa; 03 túi bột màu xanh, đỏ, vàng là chất nhuộm quần áo; cục sáp đặc hình trái tim là sáp thơm quần áo; cóong thủy tinh là dụng cụ để sử dụng ma túy “đá"; chất nhựa màu đen là thuốc phiện; thảo mộc khô là Cần sa của Cải, mua về với mục đích sử dụng.

Như vậy, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được Cơ quan điều tra thu thập đảm bảo đúng thủ tục tố tụng như: Biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai nhận tội của Nguyễn Đức L, Nguyễn Thị C phù hợp với tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác thì có đủ căn cứ kết luận: Ngày 24/6/2021, Nguyễn Thị C đã có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Đức L 02 gói ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,651gam và được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; ngày 28/6/2021, khám xét nơi ở Cải còn tàng trữ trái phép 02 chất ma túy nhằm mục đích sử dụng gồm: 3,605 gam thuốc phiện và 0,141 gam cần sa. Tổng khối lượng các chất ma túy Cải cất giấu nhằm sử dụng không quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản của Điều 249 Bộ luật Hình sự và được quy đổi theo Nghị định 19/2018/NĐ – CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng các chất ma túy bằng 0,72241% (so với khối lượng tối thiểu các chất ma túy quy định tại điểm e, h khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự).

Nên hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị C được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra, Cung Trọng H khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Đức L. Cung Trọng H khai việc L mang theo ma túy và cất giấu ma túy trong xe ô tô của Hiếu thì Hiếu không biết. Giữa Hiếu và L không trao đổi bàn bạc gì liên quan đến ma túy. Hiếu chỉ đồng ý chở L và lấy tiền thuê xe taxi theo giá cả thị trường nên Cơ quan điều tra không xử lý và đã trả lại tài sản cho Cung Trọng H, Hiếu đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Về đối tượng “Minh Đoàn”, Nguyễn Đức L khai không biết tên, tuổi, địa chỉ, chỉ liên lạc qua mạng xã hội Zalo nên Cơ quan điều tra không đủ điều kiện để xác minh làm rõ.

Đối tượng sử dụng số điện thoại 0878525560 hỏi mua ma túy của L. L không biết tên tuổi, nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với số điện thoại trên nhưng số thuê bao chưa đăng ký thông tin nên Cơ quan điều tra không đủ điều kiện để xác minh làm rõ.

Về người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Thị C, Cải không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ.

Tại bản cáo trạng số 267/CT-VKS ngày 18/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố: bị cáo Nguyễn Thị C về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 251 và tội "Tàng trữ trái phép chât ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Đức L về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

a) Về trách nhiệm hình sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L mức án từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 ; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 51 khoản 1 điểm s; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C mức án từ 28 đến 32 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Thị C phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 43 tháng đến 50 tháng tù.

b) Về tang vật: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 phong bì niêm phong bên trong có: 02 túi ni lông màu trắng kích thước mỗi túi khoảng 2x3 cm đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,651 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 0,033 gam, còn lại 0,618 gam); Tại các mép niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, đương sự Nguyễn Đức L, người chứng kiến: Phùng Văn Vương và cán đội CSĐT về ma túy Đào Xuân Bình.

- 01 hộp giấy carton bên trong có: 01 cân điện tử vỏ màu trắng; 01 túi ni lông chứa 3,605 gam là thuốc phiện (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 1,096 gam, còn lại 2,509 gam); 01 túi thảo mộc khô là 0,141 gam là cần sa (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 0,065 gam, còn lại 0,076 gam); 01 coóng thủy tinh. Tại các mép niêm phong có chữ ký của ĐTV Phạm Cánh Quân, đương sự Nguyễn Thị C, giám định viên Trần Ngọc Chinh.

- 01 túi ni lông chứa 03 cục bột màu vàng, đỏ, xanh: Chất bột màu xanh bên trong 01 túi ni lông không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 325,317 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 45,876 gam, còn lại 279,441 gam); Chất bột màu vàng bên trong 01 túi ni lông không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 484,888 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 44,147 gam, còn lại 440,741 gam); Chất bột màu đỏ bên trong 01 túi ni lông không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 422,506 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 38,437 gam, còn lại 384,069 gam); 01 cục sắt đường kính 4cm có in hình trái tim đường kính 0,7cm. Tại các mép niêm phong có chữ ký giáp lai của ĐTV Phạm Cánh Quân, đương sự Nguyễn Thị C, giám định viên Trần Ngọc Chinh.

- 01 thùng tôn nhỏ kích thước 20x25x40 cm;

- 01 ví da màu hồng;

- 01 ví da màu đỏ;

* Tịch thu sung công:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu REALME màu xanh đã cũ, kèm 01 sim;

- 500.000 đồng (tiền thu lời bất chính qua việc mua bán ma túy của Nguyễn Thị C) ;

- 03 ĐTDĐ gồm 01 ĐTDĐ Samsung màu đen có sim 1: 0961144858, sim 2: 0878381988; 01 ĐTDĐ có sim: 0946676072; 01 ĐTDĐ màu đen có sim 0984870796.

- 01 máy iPad màu trắng;

* Trả lại cho Nguyễn Thị C:

- 01 CMND mang tên Nguyễn Thị C được cất trong 01 ví da màu đen.

- 108.500.000 đồng (tiền gia đình Nguyễn Thị C kinh doanh tạp hóa);

* Không áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự;

c) Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của Nguyễn Thị C phù hợp với lời khai của Nguyễn Đức L; phù hợp với lời khai của những người làm chứng; kết luận giám định, tang vật thu được và các tài liệu chứng cứ có trong vụ án; các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ 35 phút ngày 27/6/2021, Nguyễn Đức L đang chuẩn bị thực hiện hành vi bán trái phép 0,651 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật tại số 33 Ngõ Huyện, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nguồn gốc số ma túy L bán trái phép trên là do mua của Nguyễn Thị C với giá 500.000 đồng vào ngày 24/6/2021. Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức L và Nguyễn Thị C đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 251.

Ngày 28/6/2021, khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị C còn thu giữ 3,605 gam thuốc phiện và 0,141 gam cần sa cất giấu trái phép nhằm mục đích để sử dụng. Do đó hành vi của Nguyễn Thị C còn phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với các chất ma tuý. Tệ nạn ma tuý đã và đang huỷ hoại sức khoẻ, nhân cách của nhiều người, là hiểm họa, đe dọa đến cuộc sống bình yên của mọi người, mọi nhà và toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm hình sự. Đồng thời, ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới HIV/AIDS. Các bị cáo đều nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng, mua bán các chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm. Xét các bị cáo đều có nhân thân xấu, bị cáo Nguyễn Đức L từng có 02 tiền án, 01 tiền sự; bị cáo Nguyễn Thị C từng có 01 tiền án.

Do đó cần phải xử phạt các bị cáo một hình phạt tù cách ly với xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

Xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Tòa không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về các biện pháp tư pháp: Xét thấy, đối với số ma túy thu giữ là vật nhà nước cấm lưu hành; 01 cân điện tử; 01 cục sáp hình trái tim; 01 coóng thủy tinh ; 01 thùng tôn ; 01 ví da màu đen + 01 ví da màu hồng + 01 ví da màu đỏ đều đã cũ không còn giá trị sử dụng + 05 sim điện thoại đã cũ cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 500.000 đồng tiền bán ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị C + 04 điện thoại đã cũ + 01 Ipad màu trắng đã cũ thu giữ của các bị cáo L, Cải cần tịch thu sung công;

Đối với số tiền 108.500.000 đồng thu giữ tại nơi ở của bị cáo Nguyễn Thị C, bị cáo khai là tiền bán hàng tạp hóa và tiền của vợ chồng bị cáo. Anh Tạ T1 là chồng của bị cáo cũng có đơn đề nghị Tòa án xem xét trả lại cho gia đình. Xét số tiền tren là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội + 01 chứng minh thư mang tên Nguyễn Thị C nên trả lại cho bị cáo;

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

- Bị cáo Nguyễn Thị C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Bị cáo Nguyễn Đức L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 25 (Hai mươi lăm) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Thị C phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 40 (Bốn mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021;

3. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2021

4. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

* Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ Đào Xuân Bình, đương sự Nguyễn Đức L, người chứng kiến Phùng Văn Vương bên trong có: 02 túi ni lông màu trắng kích thước mỗi túi khoảng 2x3 cm đều chứa tinh thể màu trắng là loại Methamphetamine có khối lượng 0,651 gam (PC 09 – Công an Hà Nội đã trích lấy mẫu để giám định 0,033 gam, còn lại 0,618 gam), Theo kết luận giám định số 5413/KLGĐ ngày 05/7/2020 của PC 09 – Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội và các biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng;

+ 01 hộp giấy catong được niêm phong các mép có chữ ký của điều tra viên Phạm Cánh Quân, đương sự Nguyễn Thị C, giám định viên Trần Ngọc Chinh bên trong có:

+ 01 cân điện tử vỏ màu trắng; 01 cóong thủy tinh;

+ 01 túi niong chứa 3,605 gam thuốc phiện, PC 09 trích mẫu 1,096 gam, còn lại 2,509 gam;

+ 01 túi thảo mộc khô trọng lượng 0,141 gam là cần sa, PC 09 trích mẫu 0,065 gam, còn lại 0,076 gam cần sa;

+ 01 túi nilong đựng 03 túi nilong chứa cục bột màu vàng, đỏ, xanh trong đó (01 túi nilong chứa chất bột màu xanh khối lượng 325,317 gam, PC 09 trích mẫu 45,876 gam, còn lại 279,441 gam; 01 túi nilong chứa bột màu vàng khối lượng 484,888 gam, PC 09 trích mẫu 44,147 gam, con lại 440,741 gam; 01 túi nilong chứa chất bột màu đỏ khối lượng 422,506 gam, PC 09 trích mẫu 38,437 gam, còn lại 384,069 gam);

+ 01 cục sáp hình trái tim kích thước khoảng 4x7cm;

(Theo kết luận giám định số 5415/KLGĐ của PC09 ngày 05/7/2020 – Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hà Nội và các biên bản, niêm phong vật chứng của Cơ quan điều tra);

+ 01 thùng tôn nhỏ kích thước khoảng 20x25x40 cm (bị hỏng khóa cài);

+ 05 sim điện thoại đã cũ;

+ 01 ví da màu đen đã cũ;

+ 01 ví da màu hồng đã cũ;

+ 01 ví da màu đỏ đã cũ;

* Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ Số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen;

+ 01 điện thoại di động đã cũ;

+ 01 điện thoại di động màu đen đã cũ;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu REALME màu xanh đã cũ;

+ 01 Ipad màu trắng đã cũ, mặt trước màn hình bị rạn nứt;

* Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị C:

+ 01 CMND mang tên Nguyễn Thị C (Sinh năm 1988; ĐKHKTT: S, C, L, H);

+ Số tiền 108.500.000 (Một trăm linh tám triệu năm trăm nghìn) đồng;

Số vật chứng, tiền trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm và tài khoản của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/12/2021 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 30/12/2021;

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Thị C, Nguyễn Đức L phải nộp mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 272/2021/HS-ST

Số hiệu:272/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về