Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 223/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 223/2023/HS-PT NGÀY 11/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/4/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 1218/2022/TLPT-HS ngày 20/12/2022 do có kháng cáo của các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Hạng A A3, Phạm Đức A4, Trần Anh A5, Phạm Văn A6 và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 435/2022/HS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Thị A, tên gọi khác: Không; sinh năm 1976, tại Hà Nội;

HKTT và chỗ ở: Tổ 2 phố TC, phường LB, quận LB, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông Lê Văn A7 và bà Hoàng Thị A8; chồng là Lê Thanh A9 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án số 78 ngày 22/08/2012 Toà án nhân dân huyện VL, tỉnh A35 Yên xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” (đã xoá án tích).

Bị bắt từ ngày 28/05/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

2. Bùi Hồng A1, tên gọi khác: Không; sinh năm 1963, Hà Nội;

HKTT và chỗ ở: Thôn PV, xã PD, huyện PX, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Bùi Minh A10 (đã chết) và bà Nghiêm Thị A11; vợ là Đinh Thị A12; có 02 con, con lớn sinh năm 1983, con nhỏ sinh năm 1985;

Tiền án, tiền sự: Tại Bản án số 35 ngày 30/8/2017 Toà án nhân dân huyện PX, Thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, ngày 05/06/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù (chưa xoá án tích).

Nhân thân: Bản án số 10 ngày 24/06/2002 Toà án nhân dân huyện PX, tỉnh Hà Tây (cũ) xử phạt 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” (đã xoá án tích).

Bị bắt từ ngày 28/05/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

3. Giàng Páo A2, tên gọi khác: Giàng A A2; sinh năm 1981, tại Sơn La;

HKTT: Bản PN, xã MK, huyện BY, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Giàng A A13 và bà Thào Thị A14 (đều đã chết); vợ là Lý Thị A15 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2005;

Tiền án, tiền sự: Tại Bản án số 63 ngày 20/6/2017 của Toà án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” (chưa xoá án tích).

Nhân thân: Tại Bản án số 53 ngày 30/11/2020 của Toà án nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Hiện đang chấp hành án tại Trại giam YH - Bộ Công an theo Bản án số 53 ngày 30/11/2020, có mặt.

4. Hạng A A3, tên gọi khác: Không; sinh năm 1977, tại Sơn La;

HKTT và chỗ ở: Bản PĐ, xã LS, huyện MC, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 1/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Hạng A A16 (đã chết) và bà Thào Thị A17; vợ là Mùa Thị A18; có 06 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt từ ngày 04/03/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

5. Phạm Đức A4, tên gọi khác: Không; sinh năm 1987 tại Hà Nam;

HKTT: Thôn TN 1, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: P503 số nhà 16 NVC, phường BĐ, quận LB, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phạm Ngọc A19 (đã chết) và bà Đặng Thị A20; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án số 40 ngày 15/06/2005 Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” (đã xoá án tích).

Bị bắt từ ngày 30/05/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

* Các bị cáo có kháng cáo và kháng nghị:

1. Trần Anh A5, tên gọi khác: Không; sinh năm 1983 tại Hà Nội;

HKTT và chỗ ở: Số 9/114 PV, phường BĐ, quận LB, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Trần Ngọc A21 và bà Chúc Thị A22; vợ là Vy Thị Phương A23; có 2 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 15/6/1999 có hành vi trộm cắp tài sản XHCN, bị Trạm Cảnh sát BSH bắt;

- Ngày 26/01/2018 bị Công an phường NT, quận LB, Thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, Theo quyết định số 01, ngày 04/02/2018 bằng hình thức phạt tiền 2.500.000đ, bị cáo đã thi hành;

Bị bắt từ ngày 28/05/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

2. Phạm Văn A6, tên gọi khác: Không; năm sinh 1991 tại Hà Nam;

HKTT: Thôn TN 1, xã TS, huyện KB, Hà Nam; chỗ ở: P503 số nhà 16 NVC, phường BĐ, quận LB, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phạm Đình A24 (đã chết) và bà Phạm Thị A25; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt từ ngày 30/05/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an Thành phố Hà Nội, có mặt.

* Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Bào chữa cho bị cáo Lê Thị A:

- Ông Nguyễn Quang A26 Luật sư Công ty TNHH SV, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, vắng mặt;

- Ông Nguyễn Đình A27 Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt 2. Bào chữa cho bị cáo Bùi Hồng A1: Ông Huỳnh Phương A28, Luật sư Văn phòng Luật sư HN, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

3. Bào chữa cho bị cáo Giàng Páo A2: Bà Nguyễn Thanh A29, Luật sư Văn phòng Luật sư ĐS, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

4. Bào chữa cho bị cáo Hạng A A3: Bà Lê Thị A38 A30, Luật sư Công ty Luật TNHH LY, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

5. Bào chữa cho bị cáo Phạm Đức A4: Ông Đỗ Xuân A31, Luật sư Công ty Luật TNHH HP, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

6. Bào chữa cho bị cáo Trần Anh A5:

- Bà Đặng Thị Vân A32, Luật sư Văn phòng Luật sư KN, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt;

- Ông Nguyễn Quang A33, Luật sư Công ty Luật TNHH MTV PQ, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, vắng mặt trong quá trình xét xử, nhưng có mặt tại phần tranh luận.

7. Bào chữa cho bị cáo Phạm Văn A6: Bà Đỗ Thị A34, Luật sư Văn phòng Luật sư BT, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, có mặt.

* Ngoài ra còn có: Bị cáo Vũ Quang A35 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Thương mại cổ phân TP, chị Phan Thị Thu A36, anh Vũ Mạnh A37, Công ty TNHH và Dịch vụ LH, Công ty TNHH và Dịch vụ LT không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 45 phút ngày 27/05/2020, tại khu vực đường xuống cầu TT thuộc phường CK, quận LB, Thành phố Hà Nội, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận LB, Thành phố Hà Nội phát hiện xe taxi BKS: 30A-635.24 do Trần Anh A5 điều khiển chở Bùi Hồng A1 ngồi ghế phụ cạnh lái xe và xe taxi BKS: 99A - 096.79 do Vũ Mạnh A37 (sinh năm 1987, nơi cư trú: Tổ 12 phường LB, LB, Hà Nội) điều khiển có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra phát hiện trong cốp sau xe taxi BKS: 30A - 635.24 có 01 bao tải dứa màu cam bên trong đựng mận quả, 02 túi nilong màu vàng đều có kích thước khoảng (15x15x8)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 60 túi nilong có kích thước (09x06)cm bên trong chứa các viên nén hình tròn màu hồng.

Kiểm tra xe ô tô taxi BKS: 99A - 096.79 không phát hiện và thu giữ gì.

Bùi Hồng A1 khai 02 túi nilong màu vàng chứa tinh thể màu trắng là ma túy “Đá”; 60 túi nilong bên trong chứa các viên nén hình tròn màu hồng là ma túy hồng phiến. Tất cả số ma túy trên là do A1 mua tại MC, Sơn La để chuyển về Hà Nội cho Lê Thị A.

Hồi 21 giờ 30 phút ngày 27/05/2020 tại phố TC, phường LB, quận LB, Thành phố Hà Nội, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận LB tiến hành kiểm tra hành chính xe ô tô Honda City BKS: 30G - 254.67 do Vũ Quang A35 điều khiển chở Lê Thị A ngồi ghế phụ phía trước, A khai có giấu ma tuý tại nhà bị cáo A ở tổ 2, phường LB, quận LB, Thành phố Hà Nội nên Cơ quan điều tra phối hợp với Công an phường LB dẫn giải bị cáo A về địa chỉ trên kiểm tra. Tại đây, Lê Thị A đã tự nguyện giao nộp: 16 túi nilon kích thước (06x09)cm chứa các viên nén màu hồng; 17 túi nilong kích thước (06x09)cm bên trong chứa chất bột màu nâu; 02 túi nilong kích thước (8,5x13)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilong kích thước (06x09)cm chứa tinh thể màu trắng lẫn các viên nén màu hồng; 01 cân điện tử màu đen và 01 tẩu hút tự tạo. Lê Thị A khai số tang vật trên đều là ma tuý A thuê Vũ Quang A35, Trần Anh A5, Bùi Hồng A1, Phạm Đức A4, Phạm Văn A6 mua được trước đó để bán và sử dụng nhưng chưa kịp bán, cân điện tử A sử dụng để chia ma tuý, tẩu hút tự tạo để sử dụng ma tuý.

Trần Anh A5 khai phòng trọ của Phạm Đức A4 và Phạm Văn A6 tại địa chỉ: Phòng 503 nhà số 16 NVC, phường BĐ, quận LB, Hà Nội. Quá trình kiểm tra hành chính phòng trọ trên ngày 29/05/2020, phát hiện trong tủ quần áo có 01 đĩa sứ trên mặt có tinh thể màu trắng, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuộn tròn, 01 thẻ cứng có chữ VIB, 01 vỏ túi nilon màu hồng kích thước (06x09)cm. A4 khai tinh thể màu trắng là ma túy Ketamine A4 và A6 chưa sử dụng hết.

Khám xét khẩn cấp nơi ở Trần Anh A5 tại tổ 24 phường BĐ, quận LB, Thành phố Hà Nội; nơi ở của Bùi Hồng A1 tại thôn PV, xã PD, huyện PX, Thành phố Hà Nội đều không thu giữ gì.

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của:

- Lê Thị A: 01 điện thoại Nokia màu hồng, 01 điện thoại Nokia màu vàng;

01 điện thoại Nokia màu đen, 01 ô tô BKS: 30A - 294.92.

- Vũ Quang A35: 01 điện thoại Iphone màu đen; 1.500.000 đồng, 01 ô tô BKS: 30G - 254.67, 01 đăng kí xe ô tô mang tên Vũ Quang A35 và 01 giấy chứng nhận kiểm định.

- Bùi Hồng A1: 01 điện thoại Iphone màu trắng và 500.000 đồng.

- Trần Anh A5: 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại Samsung màu hồng; 01 xe ô tô BKS: 30A - 635.24 và 700.000 đồng.

- Phạm Đức A4: 01 điện thoại OPPO; 01 điện thoại Iphone, 01 ví da, 400.000 đồng, 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Đức A4.

- Phạm Văn A6: 01 điện thoại Black Berry đen; 01 điện thoại Iphone màu trắng; 01 điện thoại Nokia màu đen và 2.600.000 đồng.

- Vũ Mạnh A37: 01 ô tô BKS: 99A - 096.76, 01 điện thoại Samsung.

Tại Kết luận giám định số 4283 ngày 04/06/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Đối với số ma tuý thu giữ trên xe ô tô của A5 và A1: Tinh thể màu trắng trong 02 túi nilong màu vàng, kích thước mỗi túi (15x15x8)cm đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 1.563,30 gam. Các viên nén hình tròn màu hồng bên trong 60 túi nilong kích thước mỗi túi (9x6)cm đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 1.197,83 gam. Tổng khối lượng ma túy là 2.761,13 gam Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 4284 ngày 04/06/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hà Nội kết luận về số ma tuý thu giữ tại nơi ở của Lê Thị A:

- Các viên nén màu hồng có chữ WY bên trong 16 túi nilong kích thước (6x9)cm đều là ma túy Methamphetamine, tổng khối lượng 307,714 gam.

- Tinh thể màu trắng trong 02 túi nilong kích thước (8,5x13)cm đều là ma túy Methamphetamine, tổng khối lượng 81,866 gam.

- 01 túi nilong kích thước (6x9)cm chứa:

+ Tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 5,140 gam.

+ Các viên nén màu hồng đều là ma túy Methamphetamine, tổng khối lượng 4,820 gam.

- Chất bột màu nâu bên trong 17 túi nilong kích thước (6x9)cm đều có ma túy loại Methamphetamine và ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng: 73,452 gam.

- 01 cân điện tử màu đen và 01 bộ tẩu hút tự tạo đều có dính ma túy loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy là 399,54 gam Methamphetamine, Ketamine.

Tại Kết luận giám định số 4427 ngày 09/06/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hà Nội về số ma tuý thu giữ tại nơi ở của Phạm Đức A4 kết luận: Tinh thể màu trắng trên đĩa sứ là ma túy Ketamine khối lượng 0,070 gam; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuộn tròn và 01 thẻ cứng có chữ VIB đều dính ma tuý loại Ketamine, 01 vỏ túi nilon màu hồng kích thước (06x09)cm có dính ma tuý loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định được:

Thông qua quan hệ xã hội, Lê Thị A quen với Vũ Quang A35 được khoảng 10 năm, quen với Trần Anh A5 và Bùi Hồng A1 được khoảng 01 năm. A35 giới thiệu với A là Phạm Đức A4 và Phạm Văn A6 có mối mua ma tuý ở MC, Sơn La nên A, A35 rủ A4, A6, A1 và A5 cùng tham gia mua bán trái phép chất ma tuý. Phạm Đức A4 liên lạc với Nguyễn Văn A38 (sinh năm 1987, HKTT tại xóm 2, xã KB, thành phố PL, tỉnh Hà Nam, chỗ ở tại tiểu khu 12, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Sơn La) hỏi về chỗ mua ma tuý ở MC, Sơn La; A38 cho A4 số điện thoại 0377.619.942 của Giàng Páo A2, A4 liên lạc với A2 để hỏi mua bán ma túy, A2 mua ma tuý của Hạng A A3 (là anh em họ với A2) để bán lại cho A4. Quá trình điều tra xác định các bị can Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Hạng A A3, Giàng Páo A2, Vũ Quang A35, Trần Anh A5, Phạm Đức A4, Phạm Văn A6 đã mua bán 4 chuyến ma tuý.

Chuyến thứ nhất: Khoảng cuối tháng 04/2020, A đưa A1 100.000.000 đồng, A1 góp thêm 20.000.000 đồng rồi A gọi điện bảo A5 lái xe chở A1 và A4 lên MC, Sơn La để mua ma tuý. A4 gọi điện cho A2, hẹn đến lán trọ của A2 ở sau Ủy ban nhân dân huyện MC để thoả thuận mua bán ma tuý. A5 lái xe chở A1, A4 đến nơi thì đứng ngoài, A1 và A4 đi vào lán gặp A2. Tại đây, A2 gọi A3 đến, A1 đưa A3 120.000.000 đồng đặt mua của A3 mua 01 kg ma túy “đá” với giá 100.000.000 đồng/ 01 kg, 10 túi hồng phiến với giá 2.000.000 đồng/ 01 túi. A3 gọi điện cho TS (người Lào) để mua số ma túy trên cho A1. Đến tối cùng ngày, TS cho người mang ma túy đến cho A3 và nhận tiền. Sáng hôm sau, A3 mang ma túy đến giao cho A1, A4 tại lán trọ của A2 rồi đi về. A2 đi cùng A4, A1 đến nhà nghỉ ĐH ở thị trấn MC, tại đây A4 lấy 01 túi hồng phiến vừa mua để A4, A1, A2 cùng sử dụng. A4 lấy 01 túi hồng phiến đưa cho A2 nhờ chuyển cho Nguyễn Văn A38 (là bạn chung của A4, A2). Sau đó A4 mang ma túy cất ở cốp xe ô tô của A5 để A5 lái xe về trước, còn A1, A4 đi taxi về sau. Khi A1, A4 về đến nhà A thì A5 đã về được một lúc, A4 cầm cặp xách chứa ma túy đưa cho A, A35 lấy một ít ma túy đá dùng thử để kiểm tra chất lượng. A cho A4 túi hồng phiến dùng dở, A35 lấy 5 túi hồng phiến, A1 lấy 02 lạng ma túy đá, số ma tuý đá và hồng phiến còn lại A1 bán cho phụ nữ tên A39 với giá 120.000.000 đồng. Hôm sau A trả A5 5.000.000 đồng tiền xe taxi.

Chuyến thứ 2: Ngày 04/05/2020, A chuyển cho A1 trước 90.000.000 đồng vào tài khoản số 020083584891 mang tên Tạ Thị Hương A40 (bạn gái A1) mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) - Chi nhánh TT, Hà Nội và gửi cho A5 100.000.000 đồng để A5 đưa cho A1 đi mua ma tuý. Sau đó, A5 lái xe taxi đón A1, A40, A4 lên MC mua ma túy và thuê phòng tại nhà nghỉ NĐ. A4 gọi điện thoại cho A2 để hỏi mua ma túy nhưng A2 không có ở nhà nên gửi số điện thoại 0363.669.081 của A3 để A4 trực tiếp liên lạc. A4 gọi cho A3 và hẹn gặp nhau ở cửa khẩu LS, thị trấn MC. A5 lái xe chở A4, A1, A40 đến đỉnh đồi thuộc bản A M, xã LS thì gặp A3 đợi bên đường, A3 lên xe ô tô trao đổi riêng với A1, A4 còn A5 và A40 đợi ở bên ngoài xe. Trên xe ô tô, A1 đưa cho A3 160.000.000 đồng để nhờ A3 mua 01 kg ma túy “đá” và 30 túi hồng phiến. A3 cầm tiền đi về và gọi điện thoại cho TS hỏi mua ma túy. Hôm sau, TS cho người mang ma túy đến cho A3.

Ngày 05/05/2020, A4 liên lạc với A3 thì được biết do trời mưa và còn thiếu tiền nên chưa mang ma túy ra được, A1 báo lại cho A. Tối cùng ngày, A6 lái xe ô tô chở A, A35 lên MC gặp nhóm A4, A1. Do A4, A1 không rút được tiền trong tài khoản ngân hàng của A40 nên A đưa thêm 30.000.000 đồng cho A4 để giao cho A3 và lấy ma túy về. A4 gọi điện thoại cho A3 hẹn giao thêm tiền và nhận ma túy tại lán trọ của A2. Sau đó, A, A35, A6 và A40 ở lại nhà nghỉ, còn A5 chở A4 và A1 đi nhận ma túy. Tại lán của A2, A4 đưa thêm cho A3 30.000.000 đồng, A3 cầm tiền và đi về, A2 xách túi màu đỏ chứa ma túy ra xe ô tô cho A4. Khi nhận được ma tuý, A, A35, A6 đi ô tô về trước, A5 lái ô tô chở ma túy về Hà Nội, còn A1, A4, A40 về sau. Khi A5 về đến khu vực cầu TT, Hà Nội thì A5 đón A1, A4, A40 về nhà A. Tại đây, A lấy một ít ma túy đá để A35 dùng thử, kiểm tra chất lượng rồi A, A4, A1, A40, A6 cùng sử dụng ma tuý. A4 lấy 01 túi hồng phiến, A1 lấy 01 gói ma túy đá không rõ số lượng. Hôm sau, A trả A5 5.000.000 đồng tiền công lái xe. A1 đến nhà A lấy ma túy đá và hồng phiến để bán cho A39 với giá 200.000.000 đồng.

Hạng A A3 khai trong chuyến thứ 2, A3 chỉ nhận của A4 60.000.000 đồng để mua hộ 30 túi hồng phiến. Tuy nhiên căn cứ lời khai của A, A1 và A4 phù hợp với nhau về việc các bị can đã mua 01 kg ma tuý đá và 30 túi hồng phiến của A3 với tổng tiền là 190.000.000 đồng nên lời khai của A3 về việc chỉ bán 30 túi hồng phiến là không có căn cứ.

Chuyến thứ 3: Ngày 11/05/2020, A đưa cho A6 01 ba lô đựng 270.000.000 đồng rồi bảo A5 lái xe chở A4, A bảo A41 (là lái xe A quen, không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) lái xe chở A6 cùng đi lên MC, Sơn La để mua ma túy. Cả nhóm nghỉ tại khách sạn MT, MC rồi hôm sau chuyển sang ở tại nhà nghỉ ĐH, thị trấn MC. A6 đưa cho A4 ba lô đựng tiền của A. Do A4 và A41 cãi nhau về việc A41 muốn nhờ A4 mua riêng hồng phiến cho A41 nhưng A4 không đồng ý nên A41 lái xe bỏ về trước. A4 gọi điện cho A2 nhờ mua ma túy nhưng A2 không có ở nhà nên A4 gọi A3 hẹn đến nhà nghỉ ĐH để trao đổi mua bán ma túy. A4 đưa A3 balô đựng 270.000.000 đồng để đặt mua 02 kg ma túy đá và 30 gói hồng phiến. A3 tiếp tục liên lạc với TS để mua ma túy.

A5 lái xe chở A4, A6 và đón A2 cùng đi vào khu vực cửa khẩu LS gặp A3 rồi nhận 01 balo màu xanh chứa ma túy. Sau đó A3 đi xe máy chở A2, A6 ra thị trấn MC đợi, còn A5 lái xe ô tô chở A4 mang ma túy đi đến gần nhà Nguyễn Văn A38 rồi mua 01 thùng mận và cất balo đựng ma túy vào trong thùng mận rồi dán kín, trên thùng mận ghi tên, số điện thoại của A5. A4 gọi điện nhờ A38 gửi thùng mận đựng ma tuý này theo xe khách về Hà Nội. Sau đó A5 lái xe chở A4 đi đón A6, A2 cùng về Hà Nội. Khi về đến cầu vượt AK trên đường ĐLTL, Hà Nội thì A6, A5 xuống xe nhận thùng mận chứa ma túy từ xe khách để vào cốp xe ô tô của A5. A6 lái xe đưa cả nhóm về nhà bạn của A ở khu vực giáp ranh YV - ĐA. Tại đây có A, A35 đợi sẵn, cả nhóm cùng sử dụng ma túy đá, số ma túy còn lại A5 mang về nhà A. Ngày 15/05/2020, A1 lấy số ma túy trên bán cho A39 với giá 320.000.000 đồng.

Sau 3 chuyến mua bán ma tuý, A6, A4 nhắn tin cho A để đòi tiền công, A đưa 40.000.000 đồng cho A6, A4, trong đó trả A4 20.000.000 đồng, A6 20.000.000 đồng nhưng bớt lại 5.000.000 đồng trả công cho A41.

Đối với chuyến mua ma tuý thứ 3, A và A4 khai A đã đưa cho A6 ba lô đựng 200 triệu đồng, A6 khai A đưa cho A6 ba lô đựng 270.000.000 đồng còn A3 khai đã nhận của A4 260.000.000 đồng để mua ma tuý. Trong đó A4 và A3 khai phù hợp với nhau về việc chuyến này các bị can đã mua 02 kg ma tuý “đá” và 30 túi hồng phiến, giá thoả thuận là 01 kg ma tuý đá giá 100.000.000 đồng và 2.000.000 đồng/ 01 túi hồng phiến nên lời khai của A3 về việc nhận 260.000.000 đồng của A4 là có căn cứ.

Chuyến thứ 4: Ngày 25/05/2020, A trả A5 3.000.000 đồng tiền xe đi MC, Sơn La gặp A2 giao dịch mua bán ma tuý. A chuyển 200.000.000 đồng cho A5 qua dịch vụ chuyển tiền của Viettel, A5 đến cửa hàng Viettel ở MC rút được 100.000.000 đồng (do hạn mức rút tiền chỉ được 100.000.000 đồng/01 ngày). A5 bảo A chuyển 100.000.000 đồng cho chị Nguyễn Thị A42 (trú tại: tiểu khu 14, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Sơn La) là chủ nhà nghỉ ĐH để nhờ chị A42 rút tiền hộ và chuyển cho A5. Đến tối ngày 26/05/2020, A5 giao cho A2 200.000.000đ để đặt mua 02kg ma túy đá và 60 túi hồng phiến. A2 cầm tiền và liên lạc với Vàng A A43, khoảng 30 tuổi, ở bản C, xã ĐS, huyện MC, tỉnh Sơn La để đặt mua ma tuý. A2 gọi điện bảo A5 còn thiếu tiền mua ma tuý nên A5 gọi báo cho A. A thuê A37 là lái xe taxi chở A, A1 lên MC, Sơn La.

Đến 7 giờ ngày 27/05/2020, vợ chồng A2 đi xe máy đến phòng nghỉ của A. A2 bảo 200.000.000 đồng mua được ít ma tuý nên người ta không bán. A đưa thêm A1 100.000.000 đồng để A1 đi nhận ma túy cùng A2, vợ A2 ở lại nhà nghỉ. Cả nhóm có 03 xe ô tô gồm 1 xe ô tô của A37, 1 xe taxi chở A, 1 xe A5 chở A1 và A2 đi vào bản nhận ma túy. Khi đi hết đường bê tông thì xe của A, A37 ở ngoài, A5 chở A1, A2 đi tiếp vào khoảng 01 km đến khu vực bản Cóc, xã Đông Sang, huyện MC, Sơn La thì đường lầy không đi được. A2 gọi vợ đi xe máy đến, A2 lấy xe máy chở A1 đi tiếp vào bản, A1 đưa thêm A2 100.000.000 đồng và đứng đợi còn A2 một mình đi tiếp vào bản để đưa 100.000.000 đồng cho Nhạ rồi nhận 01 cái gùi bên trong đựng ma túy. A2 đi ra và chở A1 đến đường bê tông gặp A5, A2 để ma túy vào bao tải mận có sẵn trên xe. Khi A5 gọi điện báo cho A đã mua được ma tuý thì A về Hà Nội trước còn xe ô tô của A37 và xe ô tô của A5, A1 về sau. Trên đường đi A5 mua thêm mận đổ vào bao tải đựng ma túy. Khoảng 15 giờ 30 cùng ngày, cả 3 vào quán hát Karaoke ĐH ở thị trấn Nông A6 MC thuê phòng hát, A5 nhờ chị Trần Thị A44 là chủ quán hát gửi giúp bao tải mận theo đường xe khách về Hà Nội, bên ngoài bao tải ghi tên, số điện thoại của A5. Cả nhóm hát khoảng 01 tiếng thì cùng về Hà Nội. Đến cầu vượt AK thuộc ĐLTL thì dừng xe, A1 nhận từ xe khách bao tải mận chứa ma túy để lên xe ô tô của A5 và đi về nhà A, khi đến khu vực qua cầu TT thì cả 2 xe ô tô của A37 và A5 bị kiểm tra, bắt giữ.

Trần Anh A5 khai 2 chuyến đầu tiên A5 chở A4, A1 đi MC theo chỉ đạo của A nhưng không biết các bị can mua bán ma tuý, đến chuyến thứ ba khi thấy A4 và A41 cãi nhau liên quan đến ma tuý thì A5 biết nhóm A, A4, A1 đi MC để mua bán ma tuý nhưng không biết cụ thể số lượng ma tuý. Tại chuyến thứ 4, A5 trực tiếp cầm tiền của A để giao dịch mua bán ma tuý với A2.

Về số ma túy thu giữ tại nhà Lê Thị A ở tổ 2, phường LB, quận LB, Hà Nội, Lê Thị A và Bùi Hồng A1 khai: Ngày 24/05/2020, A1 mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực huyện PX, Hà Nội và mang đến nhà A để sử dụng và bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán cho ai thì bị kiểm tra, bắt giữ.

Về số ma túy 0,07 gam Ketamine thu giữ tại phòng trọ của A6 và A4, A6 và A4 khai tối ngày 26/05/2020, A6 đưa A4 500.000 đồng để A4 đi mua Ketamine của một người đàn ông không quen biết để sử dụng, chưa sử dụng hết thì bị thu giữ.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 435/2022/HS-ST, ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Hạng A A3, Phạm Đức A4, Trần Anh A5, Phạm Văn A6 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt Lê Thị A tử hình và phạt tiền 20.000.000đ.

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Hồng A1 tử hình;

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Giàng Páo A2 tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Bản án số 53/2020/HSST ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La mà bị cáo đang chấp hành. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Giàng Páo A2 phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là tử hình.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điểu 52; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hạng A A3 tử hình.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Đức A4 tử hình, xử phạt bị cáo Trần Anh A5 tử hình, xử phạt bị cáo Phạm Văn A6 tử hình.

Ngoài ra, bản án còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Vũ Quang A35 tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bản án còn xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/10/2022 bị cáo Lê Thị A; ngày 03/10/2022 bị cáo Giàng Páo A2 và bị cáo Phạm Văn A6; ngày 04/10/2022 bị cáo Bùi Hồng A1; ngày 05/10/2022 bị cáo Trần Anh A5; ngày 10/10/2022 bị cáo Phạm Đức A4; ngày 12/10/2022 bị cáo Hạng A A3 đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10/10/2022 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội có quyết định kháng nghị số 14/QĐ-KNPT-P1 với nội dung kháng nghị một phần bản án, đề nghị cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho bị cáo Trần Anh A5 và bị cáo Phạm Văn A6 Tại phiên tòa, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao giữ nguyên nội dung kháng nghị đối với bị cáo Phạm Văn A6, rút toàn bộ kháng nghị đối với bị cáo Trần Anh A5.

Các bị cáo trình bày:

- Bị cáo Lê Thị A trình bày: Bị cáo thừa nhận có đưa tiền cho Bùi Hồng A1, nhưng mục đích đưa tiền là để làm ăn, còn cụ thể A1 làm việc gì thì bị cáo không biết; bị cáo không tham gia việc mua bán trái phép chất ma túy. Đối với số ma túy thu giữ tại nhà bị cáo là của Bùi Hồng A1 mang về cất giấu ở đấy, bị cáo có biết nên khi Công an đến khám xét bị cáo đã chỉ chỗ cất giấu ma túy cho lực lượng Công an, nhưng bị cáo không biết được khối lượng ma túy lại nhiều như thế. Tại phần tranh luận bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Bùi Hồng A1 trình bày: Hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm quy kết là đúng, nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức hình phạt tử hình là quá nghiêm khắc và chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, như: Bố và chú ruột của bị cáo là liệt sỹ, bà nội bị cáo là mẹ Việt Nam anh Hùng; bản thân gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo. Ngoài ra, bị cáo còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo khác trong vụ án.

- Bị cáo Giàng Páo A2 trình bày: Bị cáo chỉ tham gia mua bán ma túy một lần duy nhất là chuyến thứ tư, bị cáo được A5 và A4 gọi đến khách sạn để sử dụng ma túy, tại đây bị cáo đã nhận của A5 200.000.000đ để mua ma túy, bị cáo do nhận thức pháp luật hạn chế và do được A5, A4 mời sử dụng ma túy nên bị cáo đã giúp sức cho A5, A4 trong việc mua ma túy, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Hạng A A3 trình bày: Bị cáo không tham gia mua bán chất ma túy, bị cáo không biết được những bị cáo khác trong vụ án chỉ biết bị cáo A2; tại Cơ quan Điều tra do bị cáo uống nhiều rượu không nhớ gì nên khai không đúng; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Phạm Đức A4 trình bày: Bị cáo thừa nhận hình vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, bị cáo qua A6 thị biết được Lê Thị A và bị cáo A đã đặt vấn đề nhờ bị cáo tìm xem có chỗ nào bán ma túy không để mua, do trước đó bị cáo có quen biết A2 nên bị cáo đã gọi điện hỏi A2 biết ai bán ma túy không để mua hộ, bị cáo A2 bảo cứ dẫn họ lên nên bị cáo đã dẫn A, A1 lên gặp A2 để mua ma túy; bị cáo đã trực tiếp tham gia đi mua ma túy 03 chuyến nhưng bị cáo cũng chỉ do bị rủ rê, số tiền 20.000.000đ là bị cáo A cho bị cáo không phải tiền công, nên bị cáo chưa được hưởng lợi gì từ việc mua bán ma túy; hiện hoàn cảnh của bị cáo hết sức khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Trần Anh A5 trình bày: Bị cáo làm nghề lái xe taxi, nên lúc đầu chỉ được A thuê chở các bị cáo khác đi MC, bị cáo không biết đi làm gì, sau này bị cáo có biết và có lần A chuyển cho bị cáo 200.000.000đ vào tài khoản và bảo bị cáo rút đưa cho A2, sau các chuyến đi MC về bị cáo chỉ được A trả tiền taxi; bố bị cáo là người có công, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Phạm Văn A6 trình bày: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, bị cáo có làm vườn cho chị A, nên A4 đi cùng bị cáo đến nhà A và biết được A, A1 tham gia mua bán trái phép chất ma túy, có lần A chỉ đạo bị cáo mang theo 270.000.000đ mang lên MC để đưa cho A4 mua bán ma túy; bị cáo có hoàn cảnh hết sức khó khăn, bố là thương binh nên chết sớm, ông nội và bà nội đều là người có công được tặng thưởng huân huy chương, có bác ruột là liệt sỹ; bị cáo thấy thật sự ân hận nên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo một cơ hội được sống.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan. Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội, đã phân hóa đúng vai trò của các bị cáo; đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên đã xử phạt các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Hạng A A3, Phạm Đức A4 và Trần Anh A5 mức án tử hình là có căn cứ, đúng luật; tại cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội rút kháng cáo đối với bị cáo Trần Anh A5, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của cả 06 bị cáo. Đối với bị cáo Phạm Văn A6 là người lái xe chở A, A35 lên MC trong chuyến thứ hai, nhận tiền của A rồi đưa cho Phạm Đức A4 để mua ma túy của Hạng A A3 trong chuyến thứ ba; quá trình điều tra và tại các phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi phạm tội của mình, có nhân thân tốt, có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò giúp sức có mức độ; bị cáo A6 chỉ được hưởng lợi 20.000.000đ, nên cần phân hóa vai trò đồng phạm và thấp hơn vai trò của các bị cáo khác trong vụ án, nhưng bản án sơ thẩm lại xử phạt bị cáo A6 bằng mức hình phạt như các bị cáo khác là quá nghiêm khắc, không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo, kháng nghị để giảm hình phạt cho bị cáo A6.

Vì vậy, đề nghị áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 356; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Hạng A A3, Phạm Đức A4, Trần Anh A5; chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội và kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A6 để giảm hình phạt cho bị cáo xuống mức hình phạt tù không có thời hạn.

* Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị A trình bày: Bị cáo A chỉ thừa nhận là có đưa tiền cho Bùi Hồng A1, nhưng không biết A1 sử dụng tiền đó vào mục đích gì, chưa đủ căn cứ chứng minh A đưa tiền cho A1 để mua ma túy, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để làm rõ mục đích A đưa tiền cho A1 mới có thể đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo A.

* Người bào chữa cho bị cáo Bùi Hồng A1 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử cần xem xét, xác định đúng khối lượng; Cơ quan Điều tra lại căn cứ vào khối lượng của số ma túy bị bắt giữ để quy ra khối lượng các chuyến khác là thiếu căn cứ; trong trường hợp không xác định được khối lượng ma túy của các chuyến thì phải cân nhắc để xem xét các bị cáo chỉ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật tương ứng, theo hướng dẫn của Thông tư 17. Hơn nữa, các bị cáo đều bị xử phạt mức án tử hình, nên nhất thiết phải trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy, nhưng cấp sơ thẩm chưa thực hiện việc trưng cầu giám định. Do đố, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại; trường hợp Hội đồng xét xử không hủy án thì đề nghị xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như bị cáo thành khẩn khai báo; có bố đẻ và chú ruột là liệt sỹ, bà nội là mẹ Việt Nam anh hùng; gia đình có công với cách mạng để chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo Giáng Páo A2 trình bày: Tại phiên tòa đã làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến khối lượng, hàm lượng chất ma túy; bản thân bị cáo là người bị lợi dụng, là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên nhận thức pháp luật bị hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo Hạng A A3 trình bày: Bị cáo kháng cáo kêu oan, nhưng theo bản án sơ thẩm thì quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn, bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không nhận tội nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tội danh cho bị cáo, chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Đức A4 trình bày: Nhất trí với một số Luật sư đồng nghịệp là cần phải xem xét lại khối lượng, hàm lượng chất ma túy để xác định tính chất hành vi phạm tội của từng bị cáo; bản thân bị cáo A4 phạm tội với vai trò độc lập. Quá trình điều tra và tại các phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ bị cáo được tặng thưởng huân chương, mẹ bị cáo là người già yếu, 02 người chú của bị cáo A4 cũng được tặng thưởng huân chương, bị cáo đã phối hợp với Cơ quan Điều tra để sớm kết thúc vụ án nên cần áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sư; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo để giảm hình phạt cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Anh A5 phát biểu:

- Luật sư Đặng Thị Vân A32 trình bày: Bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn, vai trò mờ nhạt; chỉ là lái xe taxi cho các bị cáo khác; bị cáo không trực tiếp tham gia trao đổi, bàn bạc; ở chuyến cuối cùng bị cáo A5 mới biết được các bị cáo khác tham gia mua bán ma túy; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; gia đình được tặng thưởng huy chương kháng chiến, ông ngoại được tặng thưởng huân chương kháng chiến, bị cáo có nhân thân tốt, là lao động chính trong gia đình, vợ là người dân tộc thiểu số. Quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn phối hợp với Cơ quan Điều tra sớm kết thúc vụ án, nên đề nghị áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Đề nghị chấp nhận kháng cáo để giảm hình phạt cho bị cáo.

- Luật sư Nguyễn Quang A33 trình bày: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thừa nhận nên không tranh luận về tội danh; Luật sư chỉ nhấn mạnh đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo có trình độ văn hóa thấp (lớp 7) bị bố bỏ rơi khi mới lọt lòng; gia đình bị cáo được tặng nhiều huân, huy chương, bố bị cáo được tặng huân chương, bà nội là bà mẹ Việt Nam anh hùng, con bị cáo bị bệnh tự kỷ; bản thân bị cáo không biết được việc các bị cáo khác mua bán ma túy, nhưng do hoàn cảnh khó khăn bị ảnh hưởng Covid nên đã nhận lời vận chuyển, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn A6 trình bày: Quá trình điều tra và tại các phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thật sự tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội do hoàn cảnh khó khăn, có nhân thân tốt, gia đình có công với cách mạng, có bác ruột là liệt sỹ, ông nội được tặng huân chương, bà nội là mẹ Việt Nam anh hùng; hành vi của bị cáo là đồng phạm giúp sức nhưng với vai trò thấp nhận các bị cáo khác trong vụ án. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm t, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người bào chữa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là phiên tòa được mở lần thứ hai, nhưng cả hai lần Luật sư Nguyễn Quang A26 (bào chữa cho bị cáo A) và Luật sư Nguyễn Quang A33 (bào chữa cho bị cáo A5) đều có đơn xin hoãn phiên tòa, nhưng không có lý do chính đáng. Hơn nữa, Tòa cấp phúc thẩm đã yêu cầu Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội phân công Luật sư bào chữa cho cả hai bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm tuy cả hai bị cáo đều xin hoãn phiên tòa nhưng vẫn đồng ý Luật sư do Tòa án chỉ định bào chữa cho mình, nên quyền bào chữa cho các bị cáo được đảm bảo. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung. Tuy nhiên, tại phần tranh luận Luật sư Nguyễn Quang A33 (bào chữa cho bị cáo A5) có mặt và xin được tham gia phiên tòa ở phần tranh luận, bản thân bị cáo A5 cũng đồng ý để Luật sư A33 tham gia phần tranh luận để bào chữa cho mình, xét thấy việc tham gia của Luật sư không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử, nên Hội đồng xét xử đã chấp nhận.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội rút kháng nghị đối với bị cáo Trần Anh A5, nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung này.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Phạm Đức A4, Trần Anh A5, Phạm Văn A6 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã mô tả và quy kết; bị cáo Bùi Hồng A1 thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhưng cho rằng việc mua bán trái phép chất ma túy không liên quan đến gì đến bị cáo A, việc bị cáo A đưa tiền cho bị cáo là do trả nợ, tiền làm ăn chung... Giàng Páo A2 chỉ thừa nhận có một lần tham gia mua bán ma túy; Bị cáo Lê Thị A, Hạng A A3 không nhận tội, nhưng sau đó bị cáo A thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết và chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra đều thể hiện bị cáo A là người đã chỉ đạo, chi tiền để các bị cáo khác thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy; thông qua bị cáo Giàng Páo A2 các bị cáo khác đã mua ma túy của bị cáo Hạng A A3. Đối chiếu lời khai của bị cáo A, bị cáo A1, bị cáo A2, bị cáo A3 trong suốt quá trình điều tra thấy phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo Phạm Đức A4, Trần Anh A5, Phạm Văn A6 trong quá trình điều tra và tại các phiên tòa; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với kết quả trích xuất các dữ liệu trong các máy điện thoại thu giữ của các bị cáo, các sao kê số tài khoản tại các ngân hàng; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Đặc biệt là kết luận giám định. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Từ cuối tháng 4 đến ngày 27/05/2020, Lê Thị A, Bùi Hồng A1 đã thuê Trần Anh A5, Phạm Đức A4, Phạm Văn A6 và Vũ Quang A35 đến MC, Sơn La mua ma tuý của Giàng Páo A2 và Hạng A A3 để bán kiếm lời tổng cộng 04 chuyến. Chuyến thứ nhất vào cuối tháng 04/2020, A, A1, A4, A35 đã mua của A2 và A3 1.199,64 gam Methamphetamine; chuyến thứ hai vào ngày 04/05/2020, A, A1, A4, A6, A35 đã mua của A2 và A3 1.598,92 gam Methamphetamine; chuyến thứ ba vào ngày 11/05/2020, A, A1, A4, A5, A6 đã mua của A2 và A3 2.598,92 gam Methamphetamine; chuyến thứ tư vào ngày 27/05/2020, A, A1, A5 đã mua 2.761,13 gam Methamphetamine của A2 thì bị Công an quận LB, Hà Nội bắt giữ cùng tang vật tại cầu TT, phường CK, quận LB, Thành phố Hà Nội.

Ngoài ra còn thu giữ tại nơi ở của Lê Thị A tại tổ 2, phường LB, quận LB, Hà Nội tổng cộng 472,992 gam Methamphetamine và Ketamine để A và A1 bán kiếm lời.

Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, quy kết các bị cáo với tội danh như trên theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật, các bị cáo không bị oan.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương.

[5] Về việc xác định khối lượng của ma tuý “Đá” và ma tuý hồng phiến như sau: Do các chuyến mua bán ma tuý 1, 2, 3 không thu giữ được tang vật nhưng căn cứ vào số tang vật thu giữ của Bùi Hồng A1 và Trần Anh A5 trong chuyến thứ 4 để xác định khối lượng ma tuý: 01 kg ma tuý “Đá” bằng 1.000 gam Methamphetamine; 60 túi hồng phiến đã thu giữ có khối lượng 1.197,83 gam Methamphetamine nên 01 túi hồng phiến có khối lượng 19,964 gam Methamphetamine (1.197,83 gam/60 túi). Do đó, xác định khối lượng ma tuý từng chuyến như sau: Chuyến thứ nhất 01 kg ma tuý “Đá” và 10 túi hồng phiến, tương đương là 1.000 gam + (10 túi x 19,964 gam) = 1.199,64 gam Methamphetamine; chuyến thứ hai, 01 kg ma tuý “Đá” và 30 túi hồng phiến, tương đương là 1.000 gam + (30 túi x 19,964 gam) = 1.598,92 gam Methamphetamine; chuyến thứ ba 02 kg ma tuý “Đá” và 30 túi hồng phiến, tương đương là 2.000 gam + (30 túi x 19,964 gam) = 2.598,92 gam Methamphetamine; chuyến thứ tư, đã thu giữ 2.761,13 gam Methamphetamine. Tại phiên tòa phúc thẩm một số Luật sư cho rằng chưa xác định được khối lượng của các chuyến, cũng như đề nghị trưng cầu giám định hàm lượng đối với chất ma túy là không có căn cứ. Bởi vì, khối lượng chất ma túy đã được xác định như ở trên, còn việc giám định hàm lượng đây không thuộc trường hợp bắt buộc, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải giám định hàm lượng, vì kết luận giám định đã xác định rõ chất ma túy là Methamphetamine và Ketamine, nên đề nghị của các Luật sư không được chấp nhận.

[6] Xét vai trò phạm tội của các bị cáo trong vụ án, thấy:

[6.1] Đối với thì Lê Thị A, Bùi Hồng A1 là hai bị cáo giữ vai trò chính. Lê Thị A là người chủ mưu, cầm đầu khởi xướng việc mua bán ma túy, đặt vấn đề với A4 tìm người bán ma túy để mua sau đó chỉ đạo và đưa tiền cho Bùi Hồng A1, Trần Anh A5, Phạm Văn A6, đồng thời bố trí phương tiện để chở các bị cáo đi mua ma tuý, trả tiền công cho các bị cáo, để A1 cất giấu ma tuý tại nhà sau đó lấy đi bán. Bị cáo Bùi Hồng A1 tham gia với vai trò người thực hành tích cực, cùng góp tiền với bị cáo A để mua bán ma túy; là người trực tiếp cầm tiền cùng các bị cáo khác đi mua ma tuý và chính bị cáo là người đem số ma túy mua được đem bán kiếm lời. Do đó, Lê Thị A, Bùi Hồng A1 tham gia 04 vụ và phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 8.158,61 gam Methamphetamine và 472,992 gam Methamphetamine và Ketamin.

[6.2] Bị cáo Giàng Páo A2 (Giàng A A2) sau khi nghe Phạm Đức A4 đặt vấn đề mua ma túy đã tích cực đồng tình ủng hộ, là người đã tham gia bán ma tuý cho Lê Thị A, Bùi Hồng A1 và các đồng phạm trong tất cả các chuyến, nên bị cáo Giàng Páo A2 phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 8.158,61 gam Methamphetamine.

[6.3] Bị cáo Phạm Đức A4 tham gia với vai trò đồng phạm tích cực. Bị cáo đã tham gia cùng với các bị cáo khác trong việc mua bán trái phép chất ma tuý 03 chuyến, nên phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 5.397,48 gam Methamphetamine.

[6.4] Bị cáo Hạng A A3 đã trực tiếp bán ma tuý cho các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Phạm Đức A4, Trần Anh A5, Phạm Văn A6, Vũ Quang A35 03 chuyến, nên phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 5.397,48 gam Methamphetamine.

[6.5] Bị cáo Trần Anh A5 tuy là lái xe taxi, bị cáo được Lê Thị A thuê chở người đi MC để các bị cáo thực hiện việc mua bán trái phép ma túy, cũng như vận chuyển ma túy. Mặc dù, bị cáo cho rằng lúc đầu bị cáo không biết việc các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội, nhưng khi biết việc mua bán ma túy bị cáo không những không can ngăn, ngược lại còn đồng tình ủng hộ, nên bị cáo tuy tham gia với vai trò đồng phạm nhưng tích cực. Bị cáo trực tiếp tham gia mua bán trái phép chất ma tuý 02 chuyến. đặc biệt ở chuyến ngày 27/05/2020 bị cáo tham gia với vai trò tích cực. Do đó, bị cáo Trần Anh A5 phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 5.360,05 gam Methamphetamine.

[6.6] Bị cáo Phạm Văn A6 tham gia mua bán trái phép chất ma tuý 02 lần, chính bị cáo là người đã nhận từ bị cáo A 270.000.000đ và mang từ Hà Nội lên MC cho Phạm Đức A4 để thực hiện mua bán trái phép chất ma túy, nên vai trò của bị cáo là giúp sức cho bị cáo A; tổng khối lượng chất ma túy bị cáo tham gia mua bán trong 02 lần là 4.197,84 gam Methamphetamine, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy này.

Từ khối lượng chất ma túy mà các bị cáo tham gia mua bán như trên, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo A và A1 theo điểm h khoản 4 Điều 251; các bị cáo A2, A3, A4, A5, A6 theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[7] Xét kháng cáo của các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Phạm Đức A4, Giàng Páo A2, Hạng A A3 và Trần Anh A5, Hội đồng xét xử thấy: Như đã phân tích ở trên, cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với những hành vi được mô tả như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật, không bị oan. Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng khối lượng ma tuý của từng bị cáo tham gia phạm tội, đã phân hóa đúng vai trò phạm tội của từng bị cáo trong vụ án; cũng như đã xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo, như: Các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2 (Giàng A A2), Hạng A A3, Phạm Đức A4, Trần Anh A5 đều phạm tội 02 lần trở lên, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Bị cáo Lê Thị A, Phạm Đức A4, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Trần Anh A5 còn là người có nhân thân xấu; bị cáo A1, A2 có 01 tiền án đã chưa được xoá án tích về tội liên quan đến ma tuý, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, cả hai bị cáo còn chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại các phiên tòa bị cáo Trần Anh A5, Phạm Đức A4 khai báo thành khẩn; bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Hạng A A3 tại Cơ quan điều tra khai nhận hành vi phạm tội; Bị cáo Bùi Hồng A1 có bố đẻ và chú ruột là liệt sỹ; bị cáo Phạm Đức A4 gia đình có công với cách mạng; bị cáo Hạng A A3 nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, với khối lượng chất ma túy các bị cáo tham gia mua bán là đặc biệt lớn, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo ở mức án cáo nhất của khung hình phạt là có căn cứ, đúng pháp luật, không cao. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đều không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới đặc biệt để làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt; Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Anh A5 xuất trình tài liệu thể hiện bố bị cáo là người có công, bà nội bị cáo là bà mẹ Việt Nam anh Hùng, nhưng cũng không đáng kể so với hành vi phạm tội của bị cáo, nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm đối với cả 6 bị cáo là có căn cứ.

[8] Đối với kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A6; cũng như kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội về xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A6, Hội đồng xét xử thấy: Như đã phân tích ở trên thì trong vụ án này, vai trò của bị cáo là thấp hơn và khối lượng chất ma túy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự cũng thấp hơn các bị cáo khác trong vụ án; bị cáo A6 phạm tội với vai trò đồng phạm, giúp sức có mức độ; quá trình điều tra và tại các phiên tòa đã khai báo thành khẩn và thật sự tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mục đích phạm tội của bị cáo là chỉ được hưởng tiền công cho từng chuyến hàng, không phải là một mắt xích trong đường dây mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo có nhân thân tốt, chưa bị xử lý lần nào, có hoàn cảnh khó khăn; bố bị cáo thương binh nên chết sớm; ông nội của bị cáo là Phạm Văn A45 là người có công được tặng thưởng nhiều huân, huy chương; bà nội là Phạm Thị A46 đượng tặng bảng vàng danh dự; có bác ruột là Phạm Văn A47 là liệt sỹ, đây là những tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, nên cần áp dụng cho bị cáo. Từ đó, cần xem xét để xử bị cáo mức án thấp hơn các bị cáo khác trong vụ án mới tương xứng với hành vi phạm tội của mình, cũng để thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội và kháng cáo của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo, chấp nhận kháng nghị để giảm hình phạt cho bị cáo xuống mức án chung thân là có căn cứ.

[9] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật; kháng cáo của bị cáo A6 được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348; điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đối với bị cáo Trần Anh A5.

2. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Phạm Đức A4, Giàng Páo A2, Hạng A A3 và Trần Anh A5; chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đối với bị cáo Phạm Văn A6, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A6; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 435/2022/HS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội;

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2 (Giàng A A2), Hạng A A3, Phạm Đức A4, Trần Anh A5, Phạm Văn A6 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Lê Thị A tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án và phạt tiền: 20.000.000 đồng.

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bùi Hồng A1 tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 40; Điều 56 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Giàng Páo A2 (Giàng A A2) tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp với hình phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của Bản án số 53/2020/HSST ngày 30/11/2020 của Toà án nhân dân huyện MC, tỉnh Sơn La mà bị cáo đang chấp hành. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Giàng Páo A2 (Giàng A A2) phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là Tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Hạng A A3 tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Phạm Đức A4 tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 40 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Trần Anh A5 tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Giàng Páo A2, Hạng A A3, Phạm Đức A4, Trần Anh A5 có quyền làm đơn gửi Chủ tịch Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 39 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Phạm Văn A6 tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (là ngày 30/5/2020) 3. Về án phí: Các bị cáo Lê Thị A, Bùi Hồng A1, Phạm Đức A4, Giàng Páo A2, Hạng A A3 và Trần Anh A5 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Phạm Văn A6 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 435/2022/HS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 223/2023/HS-PT

Số hiệu:223/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về