Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 198/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 198/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 213/2021/HSST ngày 23 tháng 5 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 223/2022/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Lê Viết H, Sinh năm 1971; Nơi cư trú: Số nhà 02/82 Lê C, phường A, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Lê Viết Đ (Đã chết) và bà Đặng Thị S Bị cáo có vợ: Hoàng Thị L và 03 con con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/4/2011, Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/3/2022. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. “ Có mặt”

2. Hoàng Thị T, Sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT: thôn Xuân H, xã Quảng P, huyện Quảng T, tỉnh Quảng Bình; Nơi ở hiện nay: Số nhà 19 K, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Con ông Hoàng Xuân T (Đã chết) và bà Nguyễn Thị R; có chồng: Đàm Xuân N và 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 05/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị can đang bị tạm giam tại nhà Tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; “ Có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 12h00’ ngày 28/12/2021 tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Thanh Hóa làm nhiệm vụ tại đường Kiều Đại, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, phát hiện Hoàng Thị T có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện trong túi quần bên phải đang mặc của Thơm 05 túi ma túy đá, kích thước mỗi túi khoảng (2x2)cm, Thơm khai mục đích để bán kiếm lời.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Thị T tại số nhà 19 Kiều Đại, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, Cơ quan điều tra thu giữ 15 vỏ túi nilong màu trắng viền xanh, đều có kích thước (2x2)cm tại bàn trang điểm trong phòng ngủ của Thơm.

Tại Cơ quan điều tra, Thơm khai nhận số ma túy đá trên T mua của người đàn ông tên Hà ở khu vực cầu Gạch, phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa vào khoảng 15h00’ ngày 27/12/2021 với giá 500.000đ. Mua được ma túy, Thơm chia thành 05 túi nhỏ rồi giấu vào túi quần mục đích để bán nhưng chưa bán được thì bị công an phát hiện bắt, thu giữ số ma túy.

Căn cứ lời khai của bị cáo Hoàng Thị T, hồi 15h00’ ngày 17/02/2022, Công an thành phố Thanh Hóa phối hợp với Công an phường An Hưng tiến hành triệu tập đối với Lê Viết H; tại cơ quan điều tra, H khai nhận đã bán ma túy cho T à xin đầu thú, đồng thời H còn tự giác giao nộp 03 gói Heroine cho Công an và khai nhận 03 gói Heroine Hà cất giấu để sử dụng. Về nguồn gốc số ma túy, H khai mua của một người đàn ông tên là B khoảng 40 tuổi ở bờ sông Tân Tự, phường Đông Tân, thành phố Thanh Hóa vào ngày 26/12/2021 và ngày 16/02/2022 với giá 600.000đ.

Tại Bản kết luận giám định số 223/PC09 ngày 30/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy ( thu của Hoàng Thị THơm), có tổng khối lượng 1,080g, loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số 848/KL-KTHS ngày 23/02/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: “Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy,( thu của Lê Viết H) có tổng khối lượng 0,633g loại Heroine.

Quá trình điều tra Hoàng Thị T và Lê Viết H đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập được.

Vật chứng của vụ án: Toàn bộ số ma túy (Heroine và Methamphetamine) còn lại sau giám định và 15 vỏ túi nilong màu trắng viền xanh, đều có kích thước (2x2)cm thu tại bàn trang điểm trong phòng ngủ của Thơm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 162/CTr – VKS ngày 23 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Hoàng Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Lê Viết H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 55; Điều 38 Bộ luật Hình sự (Áp dụng đối với bị cáo Lê Viết H);

Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự (Áp dụng đối với bị cáo Hoàng Thị T); Khoản 2 Điều 136; khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án (áp dụng chung đối với cả 02 bị cáo);

Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Viết H mức án từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, và từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt hai tội là từ 54 đến 66 tháng tù. Truy thu của bị cáo số tiền bán ma túy cho bị cáo T 500.000đ và phạt bị cáo H từ 5 đến 8 triệu đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

Đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Thị T mức án từ 33 đến 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị HĐXX xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nhận tội và công nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo là đúng và không có ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Thanh hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã khai nhận: Khoảng 12h00’ ngày 28/12/2021, tại đường Kiều Đại, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, Công an thành phố Thanh Hóa bắt quả tang Hoàng Thị T đang có hành vi cất giấu 1,080g Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời, nhưng bị cáo chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang.

Đối với Lê Viết H đã có hành vi bán trái phép 1,080g Methamphetamine cho Hoàng Thị T, ngoài ra bị cáo còn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,633g Heroine với mục đích để sử dụng. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà hôm nay thống nhất với lời khai ban đầu các bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/12/2021 bị cáo Lê Viết H đã bán cho bị cáo Hoàng Thị T gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 1,080g. Bị cáo Thơm mua ma túy với mục đích bán kiếm lời bất chính; Hành vi của các bị cáo H và bị cáo T đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ngày 17/02/2022 sau khi cơ quan CSĐT triệu tập về hành vi bán ma túy cho bị cáo Thơm, bị cáo Hà đã tự giác giao nộp 03 gói ma túy loại Heeroin có khối lượng 0,633g, bị cáo khai mục đích tàng trữ để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Viết Hà đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định của pháp luật.

[4] Tính chất vụ án: Xét hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi những hậu quả rất nghiêm trọng do việc mua bán, vận chuyển, nghiện chất ma tuý gây ra. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, các bị cáo là những người hiểu rõ về tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[5] Vai trò và trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Trong vụ án này về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” bị cáo Lê Viết H là người bán ma túy cho bị cáo Hoàng Thị T lấy 500.000đ; Bị cáo Thơm là người mua ma túy với mục đích bán kiểm lời bất chính. Mặc dù không mang tính chất đồng phạm trong vụ án, tuy nhiên bị cáo H phải chịu trách nhiệm chính và cao hơn bị cáo T là phù hợp.

Ngoài ra bị cáo Hà còn thực hiện hành vi độc lập đó là tàng trữ 0,633g Heeroin. Nên khi quyết định hình phạt cần tổng hợp hình phạt của hai tội đối với bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo Lê Viết H có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn; Nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Sau khi phạm tội bị cáo H đầu thú nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Mặc dù bị cáo Lê Viết H được hưởng thụ bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy không nhiều, nhưng bị cáo đã từng có nhân thân bị xét xử về tội cùng loại nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 5 đến 07 triệu để sung quỹ Nhà nước là phù hợp pháp luật.

Đối với bị cáo T mua ma túy với mục đích bán kiếm lời bất chính, nhưng bị cáo chưa kịp bán thì bị bắt quả tang nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Thơm là phù hợp.

[7] Về vật chứng: Đối với vật chứng là 02 phong bì ma túy được niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa là vật Nhà nước cấm lưu hành; 15 vỏ túi nilon màu trắng, viền xanh là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Theo quy định tại khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Cần truy thu để tịch thu nộp Ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) của bị cáo Lê Viết H;

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 55; Điều 38 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Lê Viết H);

Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Hoàng Thị T);

Khoản 2 Điều 136; khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án (áp dụng chung đối với cả 02 bị cáo);

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Lê Viết H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Viết H 39 (Ba mươi chín) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 18 ( Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt hai tội là 57 ( Năm mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/3/2022.

Phạt bị cáo Lê Viết H 5.000.000đ ( Năm triệu đồng) và truy thu của bị cáo Lê Viết H ố tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) để tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt: Hoàng Thị T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ma túy được niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; 15 vỏ túi nilon màu trắng, viền xanh. Toàn bộ vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 121/2022/THA ngày 23 tháng 5 năm 2022 giữa Công an Thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh hóa.

Về án phí: Các bị cáo Lê Viết H và bị cáo Hoàng Thị T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Ngưi phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 198/2022/HS-ST

Số hiệu:198/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về