Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 165/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 165/2022/HS-PT NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1067/2020/TLPT-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Tuấn Th, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 346/2020/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Văn T, sinh ngày 12/6/1970 tại tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thôn Kim L, xã Võ L1, huyện Thanh Ch, tỉnh Nghệ An; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Xuân H và bà Hồ Thị H1; có vợ là Hoàng Thị V và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1991, con nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án: Ngày 25/01/2008 bị Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 18 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2019 đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Tuấn Th, sinh ngày 25/10/1975 tại thành phố Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: C3 Bãi Cát L2, phường Cát L2, quận Đống Đ, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Tập thể 801, tổ 7, ngõ 83, đường Ngọc H2, phường Hoàng L2, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Th1 và bà Phạm Thị Th2; có vợ là Nguyễn Thị H3 và có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1999 bị Công an quận Ba Đình xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; năm 2008 bị Toà án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; năm 2013 bị Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 32 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; bị cáo bị bắt truy nã ngày 14/01/2020 và tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2020 đến nay; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T do Tòa án chỉ định: Luật sư Nguyễn Quang T1 - Văn phòng luật sư Đặng S và cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn Th do Tòa án chỉ định: Luật sư Hoàng Ngọc Thanh B - Văn phòng luật sư Đặng S và cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 30 ngày 06/6/2019, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Phòng kỹ thuật nghiệp vụ 2 - Công an thành phô Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực phố Trần Thủ Độ, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội phát hiện xe taxi biển kiểm soát 37A-490.89 do anh Biện Trường Q, sinh năm 1994, trú tại: xóm Hoàng Trù 2, xã Kim L3, huyện Nam Đ1, tỉnh Nghệ An điều khiển chở Trần Văn T cùng anh Nguyễn Duy H4, sinh năm 2005 (là em vợ anh Q) đang dừng đỗ tại ngõ 2, phố Trần Thủ Độ, nghi liên quan đến hoạt động mua bán trái phép chất ma túy nên khi Trần Văn T vừa bước xuống xe mang theo 01 chiếc túi đi vào ngõ 2, Trần Thủ Độ thì bị Tổ công tác yêu cầu kiểm tra.

Quá trình kiểm tra, thu giữ trong chiếc túi Trần Văn T cầm gồm: 01 bánh chất bột màu trắng; 01 túi niion chứa tinh thể màu trắng.

Kết luận giám định số 3688 ngày 13/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 991,360gam; 01 bánh chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 348,38gam.

Ngoài ra còn thu giữ của T: 01 túi đeo màu đen; 01 điện thoại Nokia sử dụng số thuê bao 0965.063.103; 01 điện thoại Nokia sử dụng số thuê bao 0913.444.154 và 0834.189.585; 01 ví da; 01 chứng minh nhân dân; số tiền 10 triệu đồng.

Căn cứ lời khai của Trần Văn T mang số ma túy trên đến bán cho Nguyễn Tuấn Th, sinh năm 1975, ở tập thể 801 số 83/25 phường Hoàng L2, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội, Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Tuấn Th. Tại thời điểm khám xét, Nguyễn Tuân Th không có mặt ở nhà, chỉ có chị Nguyễn Thị H5, sinh năm 1974 (chung sống với Th như vợ chồng), chứng kiên việc khám xét và thu giữ vật chứng như sau: Trong tủ bếp: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng; trong cánh tủ lạnh 01 bọc giấy chứa chất bột màu trắng và chất bột màu nâu.

Kết luận giám định số 3689 ngày 13/06/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kêt luận: Tinh thể màu trắng bên trong túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 2,390gam; 01 bọc giấy bên trong có chất bột màu trắng và chất bột màu nâu là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,670gam.

Ngoài ra còn thu giữ trên bàn nước: 01 điện thoại Samsung sử dụng số thuê bao 0948.184.455, 01 điện thoại Nokia sử dụng số thuê bao 0377.640.698; thu giữ trong tủ kệ tivi số tiền 163 triệu đồng.

Quá trình điều tra Trần Văn T khai: Qua các mối quan hệ xã hội, Trần Văn T quen biết Nguyễn Tuấn Th, Th có hỏi và thỏa thuận mua ma túy của T với giá 170 triệu đồng/01 bánh Heroine; 260 triệu đồng/01kg ma túy đá.

Từ ngày 24/5/2019 đến ngày 06/6/2019 Trần Văn T đã 02 lần mang ma túy từ Nghệ An ra Hà Nội để bán cho Nguyễn Tuấn Th, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Ngày 23/5/2019 sau khi mua được 600gam ma túy đá của người đàn ông tên Cà Pó người Lào (chưa xác định được) tại khu vực xã Thanh Thủy, huyện Thanh Ch, tỉnh Nghệ An với giá 111.600.000 đồng, T thuê taxi do anh Biện Trường Quyết lái, điều khiển chở T từ Nghệ An ra Hà Nội, đến khu vực ngã ba Pháp Vân lúc khoảng 01 giờ sáng ngày 24/5/2019 thì Nguyễn Tuấn Th đi xe ô tô đến đón T đưa về nhà Th ở Tập thể 801, số 83/25, phường Hoàng L2, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội. Khi về đến nhà Th thì Nguyễn Thị H5 (sinh năm 1974; là người sống cùng Th) ra mở cổng. Sau đó H5 đi ngủ, còn Th và T ngồi tại tầng 1 trao đổi mua bán ma túy, T lấy 600gam ma túy đá mua tại Nghệ An ra đưa cho Th, Th dùng cân điện tử cân chỉ được 580gam, nhưng vẫn trả tiền đủ cho T 600gam với giá 156 triệu đồng.

Lần thứ hai: Khoảng cuối tháng 5, đầu tháng 6/2019 Nguyễn Tuấn Th gọi điện cho Trần Văn T đặt mua 01 bánh Heroine và 01kg ma túy đá. Ngày 03/6/2019, T đi xe máy đến khu vực biên giới Việt - Lào thuộc xã Thanh Thủy, huyện Thanh Ch, tỉnh Nghệ An mua của đối tượng Cà Pó 01 bánh Heroine với giá 140 triệu đồng, 01kg ma túy đá với giá 186 triệu đồng. Đến khoảng 12 giờ ngày 05/6/2019 T mang theo 01 bánh Heroine và 01kg ma túy đá thuê taxi do anh Biện Trường Quyết điều khiển đi từ Nghệ An ra Hà Nội để bán cho Th thì bị Tổ công tác thuộc Đội 2, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hà Nội kiểm tra bắt giữ. Số ma túy đá (580gam) T bán cho Th ngày 24/5/2019 và ngày 06/6/2019 T khai mua của cùng một người và cùng một loại ma túy bị thu giữ ngày 06/6/2019, theo kết luận giám định là Methamphetamine.

Sau khi Trần Văn T bị bắt, Nguyễn Tuấn Th đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố bị can; Quyết định truy nã đối với Nguyễn Tuấn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Ngày 14/01/2020, Nguyễn Tuấn Th bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Tuấn Th: 01 ví da bên trong có 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe hạng B2, 01 thẻ ngân hàng Techcombank đều mang tên Nguyễn Tuấn Th; 01 xe máy hiệu Piaggio Vespa biển số 30M5- 1760; 01 điện thoại di động Nokia sử dụng số thuê bao 0333.170.719; số tiền 3 triệu đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tuấn Th khai: Th có quen biết với Trần Vãn T, nhưng không mua bán ma túy với T; số ma túy 2,390gam Methamphetamine và 0,670gam Heroine thu giữ khi khám xét chỗ ở của Th tại tập thể 801, số 83/25, phường Hoàng L2, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội là Th mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực hồ Văn Chương, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội mục đích để sử dụng.

Chị Nguyễn Thị H5 khai: Toàn bộ số ma túy thu giữ tại nơi ở của chị H5 và Th là của Th. Vì Th là đối tượng nghiện ma túy, chị H5 không biết Th cất giấu ma túy trong nhà. Tại địa chỉ này chỉ có Th, chị H5 và con gái là Nguyễn Thanh Tr, sinh năm 2011 sinh sống. Chị H5 không biết về hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Th. Trước đó ngày 24/5/2019 Trần Văn T có đến nhà Th và chị H5 chơi, buổi trưa cùng ngày có đi ăn với nhau tại khu vực đường Trường Chinh, chiều ngày 05/6/2019 T có điện thoại cho chị H5 bảo ra Hà Nội chơi với Th, khoảng 03 giờ sáng ngày 06/6/2019 sau khi T bị bắt, Th có gọi điện cho chị H5 nói đang bị Công an truy đuổi, bảo chị H5 không được liên lạc với Th, số tiền 163 triệu đồng thu giữ, chị H5 khai là tiền riêng của chị H5.

Anh Biện Trường Q (lái xe taxi) khai: Khi chở T từ Nghệ An ra Hà Nội thì anh Quyết cho em vợ là Nguyễn Duy H4 đi cùng. Anh Q và anh H4 không biết T mang theo ma túy.

Anh Đỗ Quốc H6 khai: Quen biết Nguyễn Tuấn Th và chị Nguyễn Thị H5 từ năm 2014, vào khoảng 03 giờ sáng ngày 06/6/2019 Th dùng số điện thoại 0385.688.263 gọi cho anh H6 số 0967.962.298 bảo H6 ra phòng 201 nhà nghỉ Cửu L, phố Đại Từ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội để đón bạn của Th là T chở về nhà cho Th, sau đó anh H6 đến nhưng không đón được T và có nghe Th nói là T đã bị Công an bắt. H6 không biết việc mua bán ma túy giữa Nguyễn Tuấn Th và Trần Văn T.

Biên bản kiểm tra, rút list điện thoại thể hiện:

+ Số 0948184455 của Nguyễn Thị H5 lưu ở phần danh bạ có các số của Th gồm: 0933011136, 0977070577, 0933010336, 0961803736; số của T 0965063103; số của H6 0967962298.

+ Số 0965063103 của Trần Văn T: Có liên lạc với các số điện thoại của Th: 0385688263, 0933011136, 0961803736, 0933010336.

+ Phần tin nhắn giữa T và Th: Th nhắn: 00h11’ ngày 24/5/2019 nội dung “A về đến soát vé gọi e ra đón”; ngày 30/5/2019 nội dung nhắn “A có cá không”; ngày 04/6/2019 nhắn “A ơi a ra luôn nhé”; ngày 05/6/2019 lúc 22h31 nhắn “A vào nhà luôn”, lúc 23h51’ nhăn “A cứ vào nhà nhé gần đến a nháy máy e mở cửa”.

+ Phần tin nhắn giữa T và Th (khi T đã bị bắt, Cơ quan Công an sử dụng biện pháp nghiệp vụ): Th nhắn: Ngày 06/6/2019 lúc 01h6’ “A đâu rồi”; T nhắn lúc 01h46’ ngày 06/6/2019: “A vừa tắm xong, A đang ở cùng nhà nghỉ với taxi. E ra nhà nghỉ Cửu Long ở phố Đại Từ đón”; Th nhắn lúc 01h47’ ngày 06/6/2019: “A làm e hết cả hồn”; Th nhắn: “A xuống cửa đi, trở đi chỗ khác; E chạy lòng vòng để xem có đuôi không”; T nhắn: “E lên phòng 201 anh em mình nói chuyện, a không muốn mang ra ngoài; đừng gọi cho a nhăn tin đi”; Th nhắn: “A ở đâu phòng nào”.

Thời gian, vị trí cột sóng phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội ngày 24/5/2019 T bán cho Th 580gam Methamphetamine và ngày 06/6/2019 T bán cho Th 348,38gam Heroin; 991,35gam Methamphetamine.

Cáo trạng số 176/CT-VKS-P1 ngày 25/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự; Nguyễn Tuấn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 346/2020/HSST ngày 08/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Tuyên bố: Trần Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Nguyễn Tuấn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội ”Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn T tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”); điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Th 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/9/2020, bị cáo Trần Văn T kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngày 15/9/2020, bị cáo Nguyễn Tuấn Th kháng cáo kêu oan. Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Trần Văn T giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết, bị cáo xác định bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, không oan, bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các hoàn cảnh gia đình, các tình tiết giảm nhẹ để giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Tuấn Th vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo kêu oan, bị cáo cho rằng bản thân không mua bán ma túy với Trần Văn T, chỉ vì bị cáo vay nợ T 500 triệu đồng chưa trả được nên T đã khai đổ tội cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích hành vi của các bị cáo có quan điểm: Các bị cáo Trần Văn T và Nguyễn Tuấn Th đã giao dịch mua bán ma túy 02 lần, cụ thể vào ngày 23/5/2019 giao dịch mua bán 580 gam Heroine và ngày 06/6/2019 mua bán là 348,38 gam Heroine và 991,35 gam Methamphetamine. Ngoài ra, bị cáo Th còn tàng trữ tại nơi ở của bị cáo 2,390 gam Methamphetamine và 0,67 gam Heroine. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự; Nguyễn Tuấn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng quy định pháp luật, không oan. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Nguyễn Tuấn Th.

Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Trần Văn T: Bị cáo T bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Bị cáo T trực tiếp vận chuyển (02 lần) để mua bán trái phép ma túy cho Th với tổng khối lượng là 1671,35 gam Methamphetamine và 348,38 gam Heroine. Ngày 25/01/2008, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An tuyên xử 18 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đến ngày 30/4/2018 thì ra trại, nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội (ngày 23/5/2019). Bị cáo có 3 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, mua bán ma túy với số lượng đặc biệt lớn, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo T. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo T, Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T không có ý kiến về phần tội danh mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ như: Tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết, bị cáo ăn năn hối cải, bố đẻ bị cáo có công với cách mạng, được tặng thưởng huân chương, bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, khai ra đồng phạm. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Văn T.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn Th cho rằng việc quy kết bị cáo Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là còn thiếu cơ sở vì kết tội bị cáo Th chỉ căn cứ trên lời khai của chị Nguyễn Thị H5 và anh Biện Trường Quyết, tuy nhiên hai người này hoàn toàn không biết, không chứng kiến việc mua bán ma túy giữa Th và T. T khai có việc mua bán ma túy giữa T và Th nhưng không thu giữ được số tiền nào liên quan đến việc mua bán ma túy giữa Th và T. Các tài liệu rút từ list điện thoại Th trao đổi với T cũng như Th trao đổi với chị H5 không thể hiện số lượng ma túy là bao nhiêu, giá cả mua bán như thế nào. Bị cáo Th hoàn toàn không thừa nhận hành vi mua bán ma túy kể từ khi bị bắt cho đến phiên tòa hôm nay. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét nếu không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo Th thì đề nghị tuyên bị cáo Th không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Trần Văn T không đề nghị gì, bị cáo Nguyễn Tuấn Th đề nghị Hội đồng xét xử minh oan cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Hội đồng xét xử, Thư ký và những những người tham gia tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Kháng cáo của các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Tuấn Th trong hạn luật định, đảm bảo về hình thức, đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo Nguyễn Tuấn Th, Hội đồng xét xử thấy:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Nguyễn Tuấn Th chỉ thừa nhận hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo cho rằng bản thân không mua bán ma túy với Th. Mặc dù tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, Nguyễn Tuấn Th không thừa nhận hành vi mua bán ma túy với Trần Văn T, nhưng căn cứ vào lời khai của Trần Văn T tại cơ quan điều tra, tại các phiên tòa;

lời khai của chị Nguyễn Thị H5, anh Đỗ Quốc H6 và tài liệu là list điện thoại thể hiện có giao dịch qua điện thoại giữa T, Th, H5 về việc mua bán ma túy ngày 23/5/2019 và ngày 06/6/2019. Tại các lời khai nhận tôi của bị cáo Trần Văn T (BL 94-97, 98-101, 105-108, 109, 110) phù hợp với lời khai của anh Biên Trường Quyết lái xe chở bị cáo T đến Hà Nội thể hiện 03 lần chở T đều đến đường Trần Thủ Độ, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội (là địa chỉ khu vực nhà của Nguyễn Tuấn Th) (BL 193, 184-185, 188-189); phù hợp lời khai của anh Đỗ Quang H6 là người Th nhờ ra đón T lúc 03 giờ sáng ngày 06/6/2019 tại nhà nghỉ Cửu L4 ở phố Đại Từ, quận Hoàng Mai, Hà Nội (BL 211-212, 204-207), phù hợp với kết quả thu giữ thư tín, điện tín và các tài liệu, chứng cứ khác, cụ thể:

- Đối với giao dịch mua bán ma túy ngày 23/5/2019, T mang 580 gam ma túy Heroine đến nhà Th lúc 01 giờ sáng ngày 24/05/2019, khi đến khu vực ngã ba Pháp Vân thì Th đi xe ô tô đến đón T, đưa về nhà Th tại tập thể 801, số 83/25, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội thì chị Nguyễn Thị H5 ra mở cửa, sau đó chị H5 đi ngủ, còn T và Th ngồi tại tầng 1 giao dịch mua bán ma túy (BL 94-97, 98-101, 105-108), đồng thời phù hợp với list giao dịch điện thoại giữa T (số 0965063103) và Th (số 0933010336) lúc 0 giờ 20 phút ngày 24/05/2019 (BL 231). Do đó, có đủ cơ sở xác định ngày 24/5/2019 T có mặt tại nhà Th để giao dịch mua bán 580 gam Methamphetamine.

- Đối với giao dịch mua bán ma túy ngày 06/6/2019: Trần Văn T đặt mua cho Nguyễn Tuấn Th 01 bánh Heroin và 01 kg ma túy đá tương ứng 348,38 gam Heroine và 991,35 gam Methamphetamine, trong quá trình T vận chuyển ma túy đến nhà Th thì bị bắt quả tang hồi 0 giờ 30 phút ngày 06/06/2019. Th không thừa nhận mua bán ma túy với T, nhưng căn cứ vào lời khai nhận tội của Trần Văn T (BL 94-97, 98-101, 105-108), phù hợp với list giao dịch bằng điện thoại khẳng định khoảng thời gian từ 22 giờ 31 phút ngày 05/6/2019 đến khoảng 01 giờ 47 phút ngày 06/6/2019 với T, Th có liên lạc giao dịch điện thoại để hẹn T vào nhà Th (BL 51-77) nội dung: “Anh có cá không, anh ơi, anh ra luôn một thể nhé; Anh vào nhà luôn; Anh cứ vào nhà nhé gần đến anh nháy máy em mở cửa; Anh đâu rồi; Anh đi xe bạn tại hẻm 16 ha em thấy có 01 xe đỗ trước xe em có người ngồi trên; Anh làm em hết cả hồn; Anh xuống cửa trước đi cho khác; em chạy lòng vòng để xem có đuôi không”; phù hợp lời khai của anh Đỗ Quốc H6 là người bị cáo Th nhờ ra đón bị cáo T lúc khoảng 3 giờ sáng ngày 06/6/2019 tại nhà nghỉ Cửu L4 ở phố Đại Từ, Hoàng Mai (BL 204-207, 211-212), đồng thời ngay sau khi T bị bắt thì Th đã bỏ trốn và nhắn tin cho chị H5 (là người sống chung như vợ chồng với Th) không liên lạc với Th vì đang bị Công an truy bắt (BL 161-162).

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định Nguyễn Tuấn Th có giao dịch mua bán 348,38 gam Heroine và 991,35 gam Methamphetamine với Trần Văn T như Cáo trạng truy tố và Bản án sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo T, Th.

- Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy: Hồi 10 giờ 45 phút ngày 06/06/2019 Cơ quan điều tra khám xét nơi ở của Th tại địa chỉ Khu tập thể 801, số 83/25 Ngọc H2, phường Hoàng L2, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội thì phát hiện thu giữ của Th 2,390 gam Methamphetamine và 0,67 gam Heroine (BL 131-132). Đồng thời bị cáo Th cũng thừa nhận (BL 457, 445-446) số ma túy trên Th của của một người đàn ông không quen biết ở khu vực hồ Văn Chương để sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở xác định bị cáo Th tàng trữ trái phép 2,390 gam Methamphetamine và 0,67 gam Heroine.

Từ những phân tích trên, có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Trần Văn T và Nguyễn Tuấn Th đã giao dịch mua bán ma túy 02 lần, cụ thể vào ngày 23/5/2019 giao dịch mua bán 580 gam Heroine và ngày 06/6/2019 mua bán 348,38 gam Heroine và 991,35 gam Methamphetamine. Ngoài ra, bị cáo Th còn tàng trữ tại nơi ở của bị cáo 2,390 gam Methamphetamine và 0,67 gam Heroine. Do có hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự; Nguyễn Tuấn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Nguyễn Tuấn Th.

Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Trần Văn T, Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và chất gây nghiện khác, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội mà còn là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Các bị cáo nhận thức được việc mua bán ma túy là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật trừng trị rất nghiêm khắc nhưng do hám lời bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy nên các bị cáo đã phạm tội.

Bị cáo Trần Văn T mua bán khối lượng ma túy rất lớn (991,360gam Methamphetamine và 348,38gam Heroine). Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo T như: bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt về tội phạm ma túy nay lại phạm tội về ma túy, lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm, bị cáo mua bán trái phép ma túy 2 lần là các tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, bố đẻ bị cáo có công với cách mạng, là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xet, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T và quyết định mức hình phạt tử hình đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo T kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt mới, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Tuấn Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Tuấn Th; Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 346/2020/HSST ngày 08/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; cụ thể như sau:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Nguyễn Tuấn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn T tử hình.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”); điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 40 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Th 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là tử hình.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Án phí: Các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Tuấn Th, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trong thời hạn 07 (Bảy) ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Tuấn Th có quyền gửi đơn lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

421
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 165/2022/HS-PT

Số hiệu:165/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về