Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 118/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 118/2021/HS-PT NGÀY 22/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2021/TLPT- HS ngày 04/02/2021 đối với bị cáo Phạm Minh A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2020/HSST, ngày 29/12/2020 của Tòa án nhân dân quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Phạm Minh A; sinh năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT tại 769/226A PTH, Phường 4, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; tại phiên tòa bị cáo khai tạm trú tại 769/224A PTH, Phường 4, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp làm thợ nối mi; trình độ văn hóa lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Phạm Minh Tr và bà Nguyễn Thị N; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 24/8/2020, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 15 phút ngày 24/8/2020, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận D phối hợp với Công an Phường 17, quận D đi tuần tra đến trước nhà số 7 Huỳnh Văn Bánh, Phường 17, quận D thì phát hiện Phạm Minh A đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda Lead, biển số 59L2 – 871.17 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe và đưa về Công an Phường 17, quận D kiểm tra. Qua kiểm tra thu giữ trong túi quần bên phải phía trước của A đang mặc có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu. A khai gói nylon trên là ma túy và bị cáo mang đi bán cho người nghiện nên Công an Phường 17 lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ phương tiện, vật chứng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nhà của Phạm Minh A tại địa chỉ 769/226A Phạm Thế Hiển, Phường 4, Quận C, Công an thu giữ 01 hộp giấy màu vàng, bên trong có 01 gói nylon chứa tính thể không màu. A khai là ma túy tổng hợp, A để dành sử dụng.

Theo kết luận giám định số 1477/KLGĐ – H ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

“ + Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9663gram, loại Methamphetamine.

+ Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2115gram, loại Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 78/2020/HSST, ngày 29/12/2020 của Tòa án nhân dân quận D, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017” Xử phạt bị cáo Phạm Minh A 4 (Bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 1 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 5 (Năm) năm 6 (Sáu) tháng tù.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 05/01/2021 bị cáo Phạm Minh A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Phạm Minh A khai nhận đã thực hiện hành vi mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Bản án sơ thẩm đã mô tả, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo Phạm Minh A thực hiện đã nhận định: Mức án 4 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mà cấp sơ thẩm đã áp dụng là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹhình phạt để bị cáo có điều kiện hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, nên có căn cứ để xác định:

4,9663gam ma túy, loại Methamphetamine bị Công an quận D thu giữ trong người là của bị cáo mua để bán lại và 0,2115gam ma túy, loại Methamphetamine mà cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét chỗ ở là của bị cáo mua để dành sử dụng. Do đó Bản án sơ thẩm kết tội bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo phạm hai tội nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất gây nghiện mà còn là hiểm họa cho xã hội và cho người sử dụng chất ma túy. Với tính chất của vụ án như vậy, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 4 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là phù hợp, đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội bị cáo gây ra và đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ để giảm án cho bị cáo.

[4] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Minh A; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2020/HSST, ngày 29/12/2020 của Tòa án nhân dân quận D, Thành phố Hồ Chí Minh:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Phạm Minh A 4 (Bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 1 (Một) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung của 2 tội là 5 (Năm) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/8/2020.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Minh A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 118/2021/HS-PT

Số hiệu:118/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về