TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 147/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 152/2023/QXXST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Thạch Cao Đ. tên gọi khác: Giàu, sinh ngày 13/9/1994; tại: A, C, Sóc Trăng; nơi thường trú: số B, ấp G, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật: quốc tịch: việt Nam; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Thạch Đ1, sinh năm: 1940 và bà Cao Thị C, sinh năm: 1953; có vợ và 02 người con; tiền án: không; tiền sự: 02, Năm 2016, bị công an xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành xong. Năm 2018, bị công an xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành xong; về nhân thân: Năm 2019, bị Công an xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong. Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác. (có mặt)
2. Trần Quốc C1, tên gọi khác: Cá Chép, sinh ngày 10/3/1997; tại: Sóc Trăng; nơi thường trú: số A, đường V, Khóm A, Phường G, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: làm thuê; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: 01/12; con ông Trần K, năm sinh không rõ, đã chết và bà Thạch Thị T, sinh năm: 1957; có vợ và 01 người con; tiền án: 01. ngày 21/4/2017 bị Tòa án nhân dán thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 06 năm tù về tội cố ý gây thương tích; tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/7/2023 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh S. (có mặt)
3. Thạch Cao Đ2, sinh ngày 01/11/1989; tại: A, C, Sóc Trăng; nơi thường trú: số B, ấp G, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: sửa xe; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Thạch Đ1, sinh năm: 1940 và bà Cao Thị C, sinh năm: 1953; có vợ và 01 người con; tiền án: không; tiền sự: không; về nhân thân: vào ngày 11 tháng 7 năm 2001 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chắt ma túy”, chấp hành xong vào tháng 6 năm 2007 đến lần phạm tội lần này đã được xóa án tích. Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác. (có mặt)
4. Nguyễn Thanh T1, tên gọi khác: Ba Nhiễu, sinh ngày 31/12/1999; tại: P, C, Sóc Trăng; nơi thường trú: ấp S, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: 07/12; con ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1980 và bà Lê Thị Ngọc T2, sinh năm 1977; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: 01, ngày 08/3/2023 bị Công an xã H, huyện C, tỉnh Sóc Trăng xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng đồ chơi nguy hiểm bị cấm (súng bắn gây tiếng nổ)” nộp phạt xong vào ngày 23/3/2023, chưa được xóa tiền sự. Bị cáo đang chấp án tại Trại giam C4, tỉnh Bến Tre trong vụ án khác. (có mặt) - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh Thạch Trung N, sinh ngày 01/4/2001; nơi cư trú: ấp C, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
+ Anh Lê Văn H, sinh ngày 28/8/2002; nơi cư trú: số A, đường L, Khóm A, Phường G, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ, ngày 19/3/2023, Công an P2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng tuần tra tại khu vực bờ kè đường Đ, Khóm B, Phường F, thành phố S phát hiện thu giữ 01 khẩu súng tự chế (dạng súng cồn) làm bằng nhựa xung quanh có dán băng keo màu đen, dài 82cm; một balo màu xám bên trong có 01 khẩu súng ổ quay màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5 (khẩu súng ổ quay) bên trong súng có lắp sẵn 02 viên đạn, 01 bình xịt hơi cay, cùng với một số giấy tờ, vật dụng khác. Qua kiểm tra, xác minh xác định balo nói trên là của Nguyễn Thanh T1, nên vào ngày 20/3/2023, Công an P2, thành phố S đã chuyển tin báo về tội phạm cho Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh S giải quyết theo thẩm quyền. Nguyễn Thanh T1 khai nhận khẩu súng ổ quay, có lắp sẵn 02 viên đạn, mà Công an thu giữ có nguồn gốc là của Thạch Cao Đ (là bạn của T1) cho T1. Còn đối với khẩu súng cồn và bình xịt hơi cay không biết của ai để tại một quán cà phê ở khu vực bờ kè đường Đ, Phường F, thành phố S, nên T1 đem về cất giữ tại cùng vị trí với balo có khẩu súng nói trên.
Ngày 20/3/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh S đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Thạch Cao Đ, tại số B ấp G, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng đã phát hiện thu giữ trong phòng ngủ của Thạch Cao Đ2: 01 khẩu súng dài 115cm, báng súng bằng gỗ, nòng súng bằng kim loại; 01 khẩu súng ổ quay màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5, trên thân súng ghi số hiệu XYL221108377 (khẩu súng ổ quay, số hiệu XYL221108377); 08 viên đạn; 13 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy, tiền Việt Nam 10.815.000 đồng cùng các đồ vật khác có liên quan.
Thạch Cao Đ2 khai nhận khẩu súng dài 115cm, báng súng bằng gỗ, nòng súng bằng kim loại và khẩu súng ổ quay, số hiệu XYL221108377 mà Công an thu giữ có nguồn gốc là của Thạch Cao Đ gửi nhờ Đ2 cất giữ hộ.
Tại Kết luận giám định số 2247/KL-KTHS, ngày 03/4/2023 của Phán viện Khoa học hỉnh sự tại thành phố Hồ Chí Minh - Bộ C5 kết luận: 01 khẩu súng tự chế dài 82cm và 01 khẩu súng dài 115cm nói trên là súng hơi, thuộc nhóm súng săn; 02 khẩu súng ổ quay trên, là súng chế tạo thủ công một nòng nhẵn, sử dụng để bắn với đạn cỡ (5,6x15,5)mm. Hiện tại, bộ phận chính của khẩu súng có đủ, lắp ráp đúng vị trí và bắn được đạn nổ. Hai khẩu súng này là vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng; 10 viên đạn bằng kim loại là đạn thể thao chưa qua sử dụng cỡ (5.6x15,5)mm, không phải là đạn quân dụng. Loại đạn ngày thường sử dụng để bắn cho một số loại súng cỡ nòng 5,6mm như: súng ám sát hình bút, TOZ8, K55,... hai khẩu súng ổ quay nêu trên và các loại súng chế tạo thủ công có đường kính buồng đạn phù hợp.
Ngoài ra, vào ngày 22/3/2023, Công an thành phố S khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Quốc C1, tại số A, đường V, Khóm A, Phường G, thành phố S phát hiện, thu giữ: 01 khẩu súng ổ quay màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5 (khẩu súng ổ quay). Trần Quốc C1 khai nhận khẩu súng ổ quay trên là của Thạch Cao Đ gửi nhờ C1 cất giữ hộ.
Tại Kết luận giám định số 2610 KL-KTHS, ngày 24/4/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh - Bộ C5 kết luận: Khẩu súng ổ quay trên, là súng chế tạo thủ công một nòng nhẵn sử dụng để bắn với đạn cỡ (5,6x15,5)mm. Hiện tại, bộ phận chính của khẩu súng có đủ, lắp ráp đúng vị trí và bắn được đạn nổ. Khẩu súng là vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng; 02 viên đạn bằng kim loại là đạn thể thao chưa qua sử dụng cỡ (5,6x15,5 )mm, không phải là đạn quân dụng. Loại đạn này thường sử dụng để bắn cho một số loại súng cỡ nòng 5,6mm như: súng ám sát hình bút, TOZ8, K55,... Khẩu súng ổ quay nêu trên và các loại súng chế tạo thủ công có đường kính buồng đạn 6mm.
Hành vi phạm tội cụ thể của từng bị cáo nêu trên như sau:
1. Thạch Cao Điều: vào khoảng tháng 11/2022. Thạch Cao Đ sử dụng tài khoản Zalo tên “Sống Điều” đăng ký bằng số điện thoại 0364.786xxx để đặt mua 03 khẩu súng ổ quay trên và kèm theo mỗi khẩu là 04 viên đạn với giá là 9.000.000 đồng (mỗi khẩu giá 3.000.000 đồng) của một người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) có Z tên “Chung Chung” ở tỉnh Long An. Cùng ngày, người có tên Zalo này đến Sóc Trăng gặp Điều, tại nhà số B, ấp G, giao 03 khẩu súng ổ quay cùng 12 viên đạn như đã đặt mua. Sau khi Đ nhận 03 khẩu súng ổ quay cùng các viên đạn, Điều đã cất giữ 03 khẩu súng ổ quay cùng các viên đạn này trong phòng ngủ của Điều, tại nhà số B ấp G.
Khoảng 01 ngày sau, Điều tiếp tục đặt và mua thêm 08 viên đạn, với giá 350.000 đồng của người có tên Z “Chung Chung”. Cùng ngày hôm đó, thì Nguyễn Thanh T1, là bạn của Đ, đến nhà Đ chơi. Tại đây, Điều có khoe và cho T1 xem các khẩu súng mà Đ vừa mua, T1 thấy có 01 khẩu súng có vết nứt trên thân súng, nên T1 đã xin Điều, thì Đ đồng ý cho T1 khẩu súng đó và kèm theo 02 viên đạn. Sau đó, Điều lấy 03 viên đạn tự tháo thuốc súng ra để xem, còn vỏ đạn Điều không nhớ bỏ ở đâu. Đồng thời, Điều lấy 01 viên đạn lắp vào 01 khẩu súng (không nhớ khẩu súng nào) rồi Điều một mình đi ra phía sau ruộng bắn thử, còn vỏ đạn Điều không biết ở đâu, không nhớ được chính xác vị trí đứng bắn và không nhớ bắn vào thời gian nào. Còn 02 khẩu súng và 14 viên đạn, Đ tiếp tục cất giữ trong phòng ngủ của Điều tại nhà số B ấp G.
Đến khoảng đầu tháng 3/2023, Đ đã giao 02 khẩu súng và 14 viên đạn trên cho anh ruột của Đ là Thạch Cao Đ2 nhờ cất giữ hộ được Đ2 đồng ý và mang 02 khẩu súng cùng 14 viên đạn cất giữ trong tủ sắt ở phòng ngủ của Đ2 tại nhà số B ấp G. Đến khoảng 10 ngày sau, Điều kêu Đ2 giao lại cho Điều 01 khẩu súng cùng 06 viên đạn. Một lúc sau, Đ2 mang theo khẩu súng và đạn này qua nhà của Trần Quốc C1, là bạn của Điều, tại số 170/54/4, đường V, Khóm A, Phường G, thành phố S chơi. Tại đây, Đ có lấy khẩu súng ra khoe với C1 xem. Lúc này, Điều thấy có người lạ đến, Điều sợ bị phát hiện, nên Đ lấy tấm vải màu đen che giấu khẩu súng lại. Một lúc sau, do có người điện thoại đặt mua gà, nên Đ chạy xe về nhà lấy gà giao cho khách. Khi về đến nhà, Điều phát hiện đã bỏ quên khẩu súng và đạn này ở trên giường sau nhà C1, nên Đ gọi điện thoại cho C1 nói có bỏ quên 01 khẩu súng và đạn ở trên giường sau nhà có tắm vải che lại và nhờ C1 cất giữ hộ, thì C1 đồng ý cất giữ trong phòng ngủ tại nhà mình. Khẩu súng này sau đó C1 đem đi đâu, làm gì, thì Đ không biết.
Đến khoảng tháng 4/2023. Đ đã tiếp tục mua thêm của người sử dụng Zalo “Chung Chung” thêm 02 khẩu súng cùng loại ổ quay bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng bằng nhựa màu đen ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5, kèm theo 08 viên đạn, tổng cộng giá tiền là 6.000.000 đồng (mỗi khẩu giá 3.000.000 đồng). Sau đó. Đ giao cho Thạch Trung N, là bạn của Điều, 01 khẩu. Khẩu súng còn lại Điều đã mang đi cầm cho người tên “Chép” (Đoàn Tấn K1) lấy tiền tiêu xài. Điều nghe “Chép” nói khẩu súng đó “Chép” đã tiếp tục đem cầm cho người tên “Tuấn N1” (Đặng Bá L). Đối với, khẩu súng của Thạch Trung N cất giữ đã bị Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng thu giữ khi N bị bắt trong một vụ án khác, theo kết luận giám định, thì khẩu súng này không phải là vũ khí quân dụng.
Còn khẩu súng dài 115cm, báng súng bằng gỗ, nòng súng bằng kim loại (súng hơi, súng săn) mà Công an thu giữ là của Điều. Nguồn gốc có được là do bạn của Điều cho. Điều sử dụng nhằm mục đích để bắn chim, chuột.
2. Nguyễn Thanh T1: khẩu súng ổ quay, có lắp sẵn 02 viên đạn, mà Công an thu giữ tại khu vực bờ kè đường Đ, Khóm B, Phường F, thành phố S, vào ngày 19/3/2023 là của T1. Nguồn gốc T1 có được khẩu súng này là do Thạch Cao Đ cho T1. Vào khoảng sau tết nguyên đán năm 2023, T1 lại nhà T Điều chơi, thì Điều có khoe và cho T1 xem súng mà Đ mua được. T1 thấy có 01 khấu súng có vết nứt trên thân súng, nên T1 đã xin Điều, thì Đ đồng ý và cho khẩu súng đó và kèm theo 02 viên đạn. Sau khi nhận được khẩu súng, T1 chưa sử dụng vào mục gì, chỉ cất giữ khẩu súng trong balo cùng các đồ vật khác. Trong thời gian này, T1 có đem súng ra khoe với một số người bạn của T1 gồm: Phạm Thành M, Nguyễn Văn Â, Lê Quốc Đ3, C1 và M1, nhưng T1 chỉ mang ra cho những người này xem lướt qua, rồi T1 cất lại vào balo, không nói cho họ biết là súng thật hay giả.
Còn đối với khẩu súng cồn và bình xịt hơi cay là của người khác để lại tại một quán cà phê ở khu vực bờ kè đường Đ, Phường F, thành phố S, nên T1 đem về cất giữ tại cùng vị trí với balo có khẩu súng nói trên.
3. Thạch Cao Đ2: khẩu súng ổ quay và 08 viên đạn, mà Công an thu giữ tại phòng ngủ của Đ2, tại nhà số B ấp G, xã A, huyện C vào ngày 20/3/2023 là của Thạch Cao Đ gửi nhờ Đ2 cất giữ hộ. Vào khoảng đầu tháng 3/2023. Đ đã giao 02 khẩu súng ổ quay và 14 viên đạn cho Đ2 nhờ cất giữ hộ, thì Đ2 đồng ý và đem 02 khẩu súng và các đạn này cất giữ trong tủ sắt ở phòng ngủ của Đ2. Sau đó, Đ yêu cầu Đ2 đưa lại cho Điều 01 khẩu súng và 06 viên đạn, thì Đ2 vào phòng ngủ của mình lấy 01 khẩu súng và 06 viên đạn đưa cho Điều. Đối với khẩu súng này. Điều đem đi đâu, làm gì thì Đ2 không biết. Còn lại 01 khẩu súng và 08 viên đạn, thì Đ2 tiếp tục cất giữ cho Điều tại chỗ cũ. Điền cất giữ 02 khẩu súng và các viên đạn này là nhằm mục đích cất giữ hộ cho Điều. Thời gian này, trong phòng ngủ của Đ2 còn có một khẩu súng đồ chơi, bằng kim loại. Đ2 có lấy khẩu súng đồ chơi này ra đùa giỡn với bạn gái là Thạch Thị H1. Còn khẩu súng dài 115cm, báng súng bằng gỗ, nòng súng bằng kim loại (là súng hơi, súng săn) mà Công an thu giữ là của Điều.
4. Trần Quốc C1: khẩu súng ổ quay, mà Công an thu giữ tại nhà của C1, tại số A, đường V, Khóm A, Phường G, thành phố S vào ngày 22/3/2023 là của Thạch Cao Đ gửi nhờ C1 cất giữ hộ. Vào khoảng 18 giờ, cách ngày 18/3/2023 khoảng hơn 01 tuần trước, Đ có lại nhà C1 chơi, thì Đ bỏ quên khẩu súng này cùng 06 viên đạn tại nhà của C1, nên Đ2 nhờ C1 cất giữ hộ, thì C1 đồng ý và đem khẩu súng và các viên đạn này cất giữ hộ trong nhà của Đ2.
Đến 17 giờ 30 phút, ngày 18/3/2023, Trần Quốc C1, Lê Văn H và Lý T3 xảy ra mâu thuẫn với Ngô Hoàng P1 (Chuột) tại đầu Hẻm B, đường H, Khóm F, Phường F, thành phố S, nên C1 vào phòng ngủ lấy khẩu súng ổ quay cùng 06 viên đạn lắp vào khẩu súng rồi cất giấu trong người. C1 tay phải cầm con dao, tay trái cầm khẩu súng ổ quay chạy xông lên trước, khi cách nhóm người của P1 khoáng 20m C1 cầm khẩu súng ổ quay xiên lên không bắn 01 phát thì đạn nổ, C1 tiếp tục cầm khẩu súng ổ quay xiên lên không bắn tiếp thì đạn không nổ, sau đó C1 bắn thêm lần nữa thì đạn nổ thêm 01 viên. C1 tiếp tục cầm khẩu súng ổ quay đưa lên trên không bắn hết đạn trong súng nhưng chỉ nổ thêm 01 viên. Các viên đạn còn lại sau khi bắn không nổ không xác định được ở đâu, trong khẩu súng còn kẹt lại 02 vỏ đạn. Sau đó, C1 chạy về đến nhà cất giấu khẩu súng này trên khuôn hình trên bàn thờ trong nhà C1. Sau đó, Công an thành phố S khám xét thu giữ khẩu súng này tại nhà của C1 như đã nêu trên.
Ngày 26/6/2023, Cơ quan An ninh điều tra ra quyết định khởi tố bị cáo đối với Thạch Cao Đ cùng với Nguyễn Thanh T1, Thạch Cao Đ2 về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, trong vụ án xảy ra ngày 19/3/2023 tại thành phố S theo quyết định khởi tố vụ án số 02, ngày 07/4/2023. Do Thạch Cao Đ đã thực hiện người cung cấp 01 khẩu súng cho Nguyễn Thanh T1, 02 khẩu súng cho Thạch Cao Đ2 thực hiện hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng. Ngày 20/7/2023, Cơ quan Cơ quan An ninh điều tra ra quyết định khởi tố bị cáo đối với Trần Quốc C1 về tội Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, đối với Thạch Cao Đ về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng trong vụ án Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, xảy ra ngày 18/3/2023 tại Hẻm B, đường H, khóm F, phường F, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo quyết định khởi tố vụ án số 03, ngày 16/6/2023. Do Thạch Cao Đ đã thực hiện hành vi cung cấp 01 khẩu súng cho Trần Quốc C1 thực hiện hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Vì vậy, Cơ quan An ninh điều tra ra quyết định nhập vụ án số 02, ngày 07/4/2023 với vụ án số 03, ngày 16/6/2023, để xét xử các bị cáo trong cùng 01 vụ án.
Về vật chứng: Cơ quan An ninh điều tra còn tạm giữ, các đồ vật tài liệu sau: 01 khẩu súng ổ quay bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng bằng nhựa màu đen ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5; 01 khẩu súng ổ quay bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng bằng nhựa màu đen ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5, thân súng có số hiệu XYL221108377; 01 khẩu súng ổ quay bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng bằng nhựa màu đen ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5, thân súng có ký hiệu XYL221014054; 02 vỏ đạn màu vàng đồng dài 1,5cm, đít đạn ký hiệu có chữ “SB”; 01 đầu đạn kim loại màu xám trắng hình trụ, dài 1,2cm; 01 bao da của súng màu đen; 01 khẩu súng tự chế (dạng súng cồn) làm bằng nhựa xung quanh có dán băng keo màu đen, dài 82cm, là súng hơi, thuộc nhóm súng săn; 02 viên kim loại hình cầu màu trắng có thể sử dụng làm đạn cho súng hơi tự chế cỡ nòng 6mm; 01 bình kim loại hình trụ có dòng chữ TAKE DOWN kích thước 23,5x6,6cm, tay cầm bằng nhựa màu đen vàng, chưa kiểm tra.
Đối với 03 khẩu súng ổ quay là vũ khí quân dụng nêu trên, trong quá trình điều tra đã rà soát xác minh các tỉnh, thành phố trên cả nước, nhưng không phát hiện được nguồn gốc. Cơ quan An ninh điều tra đã chuyển vật chứng này cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh S nhập kho vật chứng theo quy định.
Đối với các đồ vật, tài liệu xét thấy không liên quan đến vụ án, Cơ quan An ninh điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng theo quy định. Còn đối với khẩu súng hơi và các viên đạn, theo kết quả giám định thuộc nhóm súng săn và đạn thể thao. Các vật chứng này, Cơ quan An ninh điều tra đã chuyển đến Cơ quan có thẩm quyền cùng hồ sơ đề nghị xử lý các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm theo quy định.
- Đối với người thanh niên sử dụng Zalo “Chung Chung” ở tỉnh Long An là người bán các khẩu súng cho bị cáo Đ, do không biết họ tên và địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ đề cập xem xét xử lý sau.
- Đối với Thạch Cao Đ2, có hành vi tàng trữ 13 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng có kết quả giám định là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 14,2779 gam. Cơ quan An ninh điều tra đà chuyển hồ sơ vụ việc cùng các vật chứng có liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra. Công an huyện C điều tra theo thẩm quyền.
- Đối với Thạch Cao Đ, có hành vi có hành vi sử dụng 01 khẩu súng có tính năng tương tự vũ khí quân dụng bắn thừ 01 viên đạn. Tuy nhiên, ngoài lời khai đơn phương của bị cáo Đ, thì không còn chứng cứ nào khác chứng minh Điều thực hiện hành vi này. Nên không đủ căn cứ xác định Điều phạm vào tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
- Còn về hành vi bị cáo C1 lấy khẩu súng của Điều nhờ C1 giữ hộ sử dụng trái phép, thì Điều hoàn toàn không biết. Nên có căn cứ xác định Điều có vai trò đồng phạm với bị cáo C1 về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
- Đối với Thạch Thị H1, mặc dù H1 thừa nhận bị cáo Thạch Cao Đ2 đã mang khẩu súng của Điều nhờ Đ2 cất giữ giùm ra đùa giòn. Tuy nhiên, theo lời khai của Điều thì khẩu súng mà Đ2 mang ra đùa giỡn với H1 là khẩu súng đồ chơi chứ không phải là khẩu súng Điều đã nhờ Đ2 cất giữ. Ngoài lời khai đơn phương của H1 thi không còn chứng cứ nào khác. Nên không có căn cứ xác định H1 phạm vào tội không tố giác tội phạm.
- Đối với Phạm Thành M, Trần Hoàng Â1, Lê Quốc Đ3, Lâm Chí C2 và Nguyễn Văn M2, mặc dù T1 có cho những người này xem khẩu súng mà T1 tàng trữ trái phép. Tuy nhiên, khi được T1 khoe khẩu súng thì họ không nhìn thấy rõ, vì diễn ra trong thời gian ngắn không biết là súng thật hay giả. Nên không đủ căn cứ xác định họ phạm vào tội không tố giác tội phạm.
- Đối với Lê Văn H, mặc dù theo lời khai của H khi phát hiện nhóm của P1, thì H có hô hào “móc súng ra, móc súng ra anh C2, bắn chết mẹ nó”. Tuy nhiên, H nghĩ đó là súng pháo, bắn để uy hiếp cho nhóm của P1 sợ. Đồng thời, C2 khai nhận khi sử dụng khẩu súng bắn các viên đạn là do C2 chủ động, C2 không nghe ai xúi giục để thực hiện. Nên không đủ căn cứ xác định H có vai trò đồng phạm với bị can C2 về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
- Đối với vụ việc vi phạm trật tự xã hội liên quan đến việc mâu thuẫn giữ nhóm của Trần Quốc C1 với nhóm của Ngô Hoàng P1 xảy ra vào ngày 18/3/2023 tại Hẻm B, đường H. Cơ quan An ninh điều tra đà chuyển hồ sơ vụ việc cùng các vật chứng có liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố S xử lý theo thẩm quyền.
- Đối với Thạch Trans N có hành vi nhận 01 khẩu súng của Thạch Cao Đ (Điều mua 02 khẩu súng và đạn của người sử dụng Zalo “Chung Chung vào lần thứ hai). Tuy nhiên, theo kết luận giám định thi khẩu súng này không phải là vũ khí quân dụng. Nên không đủ căn cứ xác định Ngọc phạm vào tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
- Đối với Đoàn Tấn K1, Đặng Bá L là người nhận cầm 01 khẩu súng của bị can Điều. Tuy nhiên, Cơ quan An ninh điều tra chưa làm việc được với K1 và L. Đồng thời, chưa thu giữ được khẩu súng này, nên chưa giám định được. Khi nào làm việc được sẽ đề cập xem xét xử lý sau.
Cáo trạng số 45/CT-VKS-TPST ngày 23 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã truy tố các bị cáo: Thạch Cao Đ về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự; Trần Quốc C1, về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Thanh T1, Thạch Cao Đ2, về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo: Thạch Cao Điều phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”; Trần Quốc C1 phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; Nguyễn Thanh T1. Thạch Cao Đ2 phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoán 2 Điều 51; Điều 55; Điều 58; điểm 2 khoản 2 Điều 304 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Thạch Cao Đ và xử phạt bị cáo Đ: từ 06 năm tù đến 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” và từ 05 năm tù đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành chung cả hai tội là từ 11 năm tù đến 13 năm tù.
Áp dụng: Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 58; khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Quốc C1 và xử phạt bị cáo C1: từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” và từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành chung cả hai tội là từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm 06 tháng tù.
Áp dụng: Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1, Thạch Cao Đ2 và xử phạt bị cáo T1 từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Đ2 từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố Tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng tự chế bằng nhựa xung quanh có dán băng keo màu đen, dạng súng cồn; 02 viên kim loại hình tròn có đường kính 0.6 cm; 01 bình kim loại hình trụ có dòng chữ TAKE DOWN kích thước 23.5 x 6.6cm.
Tại phiên toà. các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội; không có tranh luận với Kiểm sát viên. Các bị cáo nói lời sau cùng đều xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau;
Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của anh Lê Văn H: việc vắng mặt của anh H không ảnh hưởng đến việc xét xử các bị cáo. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt anh H.
Về nội dung:
[3] Nhận thấy, tại phiên tòa các bị cáo Thạch Cao Đ, Thạch Cao Đ2, Trần Quốc C1 và Nguyễn Thanh T1 đã thừa nhận hành vi phạm tội. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với: Biên bản khám nghiệm hiện trường, các bản kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội như sau:
[3.1] Bị cáo Thạch Cao Đ: đã thực hiện hành vi mua 03 khẩu súng ngắn ổ quay, bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5 và 20 viên đạn có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng của người thanh niên có Zalo tên “C" ở tỉnh Long An, rồi đem về tàng trữ cất giấu tại nhà của bị cáo. Sau đó, bị cáo Đ cho Nguyễn Thanh T1 01 khẩu. Còn 02 khẩu, bị cáo đưa cho Thạch Cao Đ2 cất giữ hộ; nhưng sau đó bị cáo yêu cầu bị cáo Đ2 đưa lại cho bị cáo 01 khẩu, rồi bị cáo lại tiếp tục đưa khẩu súng này nhờ bị cáo Trần Quốc C1 cất giữ hộ. Hành vi của bị cáo Thạch Cao Đ đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm 2 khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
[3.2] Bị cáo Thạch Cao Đ2: đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 02 khẩu súng ngắn ổ quay, bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5 có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng tại nơi ở của mình, nhằm mục đích cất giữ hộ cho bị cáo Đ. Hành vi của bị cáo Thạch Cao Đ2 đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
[3.3] Bị cáo Nguyễn Thanh T1: đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 01 khẩu súng ngắn ổ quay, bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5 có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng, nhằm mục đích sưu tầm. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh T1 đã đủ các yếu tố cầu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
[3.4] Bị cáo Trần Quốc C1: đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 01 khẩu súng ngắn ổ quay, bằng kim loại màu đen, ốp nòng súng ghi ký hiệu SMITH & WESSON, ốp báng súng ghi ký hiệu ZP-5 có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng tại nơi ở của mình, nhằm mục đích cất giữ hộ cho bị cáo Đ. Sau đó, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi lấy khẩu súng này sử dụng trái phép bắn nhiều viên đạn, nhằm mục đích giải quyết mâu thuẫn của mình với nhóm của Ngô Hoàng P1. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Quốc C1 đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
[4] Trong vụ án này có nhiều bị cáo tham gia nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể, nên không mang tính tổ chức mà chỉ là đồng phạm giản đơn. Trong đó bị cáo Đ giữ vai trò chính, đã lôi kéo các bị cáo Nguyễn Thanh T1, Thạch Cao Đ2 và Trần Quốc C1 cùng thực hiện hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
[5] Các bị cáo là người có đầy đủ nhận thức và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng của Nhà nước. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân sông có ích cho gia đình và xã hội.
[6] Tuy nhiên, khi quyết định mức hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đối với các bị cáo:
[6.1] Đối với bị cáo Thạch Cao Đ: Năm 2016, bị Công an xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành xong. Năm 2018, bị Công an xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa chấp hành xong. Năm 2019, bị Công an xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong; bị cáo không có tình tiết tăng nặng, không có tiền án; dân tộc Khmer; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6.2] Đối với bị cáo Thạch Cao Đ2: sau khi phạm tội bị cáo đà thành khẩn khai báo; không có tiền án, tiền sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng; dân tộc Khmer đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6.3] Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1: vào ngày 08/3/2023, bị Công an xã H, huyện C, tỉnh Sóc Trăng xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng đồ chơi nguy hiểm bị cấm (súng bắn gây tiếng nổ)” đã nộp phạt xong vào ngày 23/3/2023; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; không có tiền án; bị cáo không có tình tiết tăng nặng đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6.4] Đối với bị cáo Trần Quốc C1: ngày 21/4/2017 bị Tòa án nhân dán thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 06 năm tù giam, đã chấp hành xong; chưa được xóa án tích, nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; không có tiền án; trình độ học vấn thấp; dân tộc Khmer đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[7] Cáo trạng số 45/CT-VKS-TPST ngày 23 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã truy tố các bị cáo: Thạch Cao Đ về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 304 Bộ luật hình sự; Trần Quốc C1 về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự; Nguyễn Thanh T1, Thạch Cao Đ2 về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho các bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng của vụ án: tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng tự chế bằng nhựa xung quanh có dán băng keo màu đen, dạng súng cồn: 02 viên kim loại hình tròn có đường kính 0.6 cm; 01 bình kim loại hình trụ có dòng chữ TAKE DOWN kích thước 23.5 x 6.6cm đây là các vật cấm, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: các bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
[10] Xét lời đề nghị Kiểm sát viên về tội danh, việc áp dụng pháp luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: khoản 1 Điều 55, Điều 58; điểm g khoản 2 Điều 304 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Thạch Cao Đ.
Căn cứ vào Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52: khoản 1 Điều 55, Điều 58; khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Quốc C1.
Căn cứ vào Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 58; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1 và Thạch Cao Đ.
Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135; khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên bố: các bị cáo Thạch C3 Điều phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”; Trần Quốc C1 phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; Nguyễn Thanh T1, Thạch Cao Đ2 phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
1. Xử phạt bị cáo Thạch Cao Đ: 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” và 05 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Thạch Cao Đ phải chấp hành chung của hai tội là 11 năm tù. Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Xử phạt bị cáo Trần Quốc C1: 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” và 01 năm tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Trần Quốc C1 phải chấp hành chung của hai tội là 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
3. Xử phạt bị cáo Thạch Cao Đ2 01 năm tù. Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
4. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T1 01 năm tù. Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
5. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng tự chế bằng nhựa xung quanh có dán băng keo màu đen, dạng súng cồn; 02 viên kim loại hình tròn có đường kính 0.6 cm; 01 bình kim loại hình tròn có dòng chữ TAKE DOWN kích thước 23.5 x 6.6cm.
6. Về án phí hình sự sơ thẩm: buộc mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.
7. Các bị cáo, anh Thạch Trung N được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Lê Văn H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014.
Bản án về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng số 05/2024/HS-ST
Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về