Bản án về tội mua bán trái phép, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và không tố giác tội phạm số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM

Ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại Nhà văn hóa xã Vũ Sơn, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Bảo S sinh ngày 17 tháng 6 năm 1997. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Phạm Ngọc T (đã chết) và con bà Lê Thị C, sinh năm 1978; vợ: Chu Thị L, sinh năm 1998, con: Có 01 người con, sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng S từ ngày 07/02/2022 đến nay. Có mặt.

2. Họ và tên: Lý Văn T, Sinh ngày 03 tháng 10 năm 1993. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Lý Thế G, sinh năm 1958 và con bà Lương Thị Q, sinh năm 1959; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc S tỉnh Lạng Sơn từ ngày 07/02/2022 đến nay. Có mặt.

3. Nguyễn Văn N, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2003. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm K, xã Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Sán Chỉ; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1971 và con bà Trần Thị T, sinh năm 1975; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn từ ngày 08/02/2022 đến nay. Có mặt.

4. Hoàng Thị D, sinh ngày 14 tháng 11 năm 1999. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm N, xã Đ, huyện H, tỉnh Cao Bằng. Chỗ ở trước khi phạm tội: Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Hoàng Văn C, sinh năm 1969 và con bà Hoàng Thị T, sinh năm 1979; chồng: Lục Đức B, sinh năm 1993; con: Có 01 người con, sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn từ ngày 07/02/2022 đến nay. Có mặt.

5. Triệu Văn K, sinh ngày 08 tháng 10 năm 2002. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã A, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Triệu Văn N, sinh năm 1975 và con bà Triệu Thị H, sinh năm 1975; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn từ ngày 11/02/2022 đến nay. Có mặt.

6. Triệu Thị H, sinh ngày 25 tháng 02 năm 2002. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm C, thị trấn N, huyện N, tỉnh Cao Bằng. Chỗ ở trước khi phạm tội: Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Dao; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Triệu Dào S, sinh năm 1984 và con bà Bàn Mùi K, sinh năm 1978; chồng: Không có; con: Có 01 người con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn từ ngày 08/02/2022 đến nay. Có mặt.

7. Phạm Văn T1, sinh ngày 12 tháng 6 năm 1997. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôm X, xã Đ, huyện l, tỉnh Thanh Hóa. Chỗ ở trước khi phạm tội: Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Mường; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1976 và con bà Phạm Thị C, sinh năm 1976; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn từ ngày 11/02/2022 đến nay. Có mặt.

8. Lý Mùi P, sinh ngày 22 tháng 8 năm 2003. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Chỗ ở trước khi phạm tội: Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Dao; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lý Dào C, sinh năm 1979 và con bà Lý Mùi M, sinh năm 1982; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn từ ngày 11/02/2022 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lương Đình N1, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn N, xã V, Huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D, Nguyễn Văn N, Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1 bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 ngày 07/02/2022, Phạm Bảo S và Lý Văn T bàn bạc, rủ nhau mua ma túy và gọi nhân viên nữ để tổ chức sử dụng trái phép tại quán hát Karaoke. Sau khi bàn bạc xong, Phạm Bảo S gọi cho Mai Văn H1 (còn gọi là H1 Tọoc) qua phần mềm Messenger để đặt vấn đề mua 02 viên ma túy tổng hợp và 01 chỉ ma túy Ketamine. Lúc này Mai Văn H1 đang ở phòng trọ tại Khối phố H, thị trấn B, Huyện B, tỉnh Lạng Sơn cùng với Triệu Văn K, Phạm Văn T, Triệu Thị H, Nguyễn Văn N. Mai Văn H1 đồng ý bán ma túy cho S, khi H1 và S trao đổi qua điện thoại, Triệu Văn K nghe được cuộc nói chuyện giữa S và H1 nên biết có người đặt mua 02 viên ma túy tổng hợp và 01 chỉ ma túy Ketamine với H1. Sau khi đặt mua ma túy xong, Phạm Bảo S tiếp tục nhắn tin qua Messenger cho Hoàng Thị D để rủ D đi sử dụng ma túy cùng với mình thì D đồng ý. S bảo D rủ thêm một người nữa thì D gửi ảnh của Lý Mùi P cho S xem, S đồng ý nên D nhắn tin qua Messenger rủ Lý Mùi P đi làm, phục vụ khách hát karaoke như mọi ngày thì Lý Mùi P đồng ý. Sau đó Hoàng Thị D và Phạm Bảo S thống nhất là sẽ đến quán Karaoke của Lương Đình N1 tại Thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Lạng S. Sau khi nhắn tin với Hoàng Thị D xong thì Phạm Bảo S gọi điện qua Messenger cho Mai Văn H1 để gọi hai nhân viên phục vụ nữ là D, P thì H1 đồng ý, sau đó H1 cử Hoàng Thị D, Lý Mùi P đi phục vụ Phạm Bảo S và Lý Văn T tại quán Karaoke của Lương Đình N. Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, Hoàng Thị D đi xe taxi từ phòng trọ tại Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn xuống quán Karaoke của Lương Đình N để đợi trước, đến 15 giờ 00 cùng ngày Lý Văn T gọi xe taxi đưa T và S đến quán Karaoke của Lương Đình N1, khi đến nơi T trả tiền taxi là 200.000đ. Khi đến nơi S và T đã thấy D ở đó, sau đó cả ba người cùng vào phòng hát, Phạm Bảo S quay lại lên chỗ quầy gọi bia và tự ý lấy 01 chiếc đĩa bằng sứ màu trắng xuống phòng hát để chuẩn bị sử dụng ma túy. Trong lúc này Lý Mùi P cũng đi xe ô tô khách từ thành phố Thái Nguyên đến nơi nên Hoàng Thị D ra đón, dẫn Lý Mùi P vào phòng hát.

Sau khi Nguyễn Văn N cùng Mai Văn H1 ăn cơm xong tại phòng trọ ở khối phố Hoàng Văn Thụ, thị trấn Bắc S. Mai Văn H1 bảo Nguyễn Văn N đi theo H1 lên phòng trọ tại khối phố T, thị trấn B để cầm ma túy đi giao cho khách, sau đó Mai Văn H1 đi trước, Nguyễn Văn N chuẩn bị đi thì Phạm Văn T1 hỏi “em đi đâu đấy” thì N trả lời “em đi có việc”, sau đó T1 vào trong bếp làm việc riêng thì Triệu Văn K ở ngoài cũng thấy N chuẩn bị đi khỏi phòng nên K có hỏi: “đi đâu đấy” thì N trả lời “tôi lấy đồ đi cho khách bay ở phòng hát” thì Triệu Văn K hiểu ý là N đem ma túy tổng hợp đi bán cho khách ở phòng hát. Sau đó N đi xe mô tô biển kiểm soát 12S1-133.98 rời khỏi nhà trọ tại khối phố H lên đến phòng trọ của Mai Văn H1 tại khối phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn thì H1 đưa cho N 01 gói ma túy bên ngoài bọc bằng giấy màu trắng và bảo N cầm xuống giao cho Phạm Bảo S tại quán hát của Lương Đình N1 và thu của S tổng số tiền là 5.800.000đ gồm tiền bán ma túy và tiền thuê D, P phục vụ. N một mình điều khiển xe mô tô xuống quán Karaoke của Lương Đình N1. Lúc này Phạm Văn T1 hỏi Triệu Văn K là “N đi đâu đấy mà không ăn cơm” thì K trả lời là “nó đi ship đồ cho khách ở dưới quán N1”, khi nghe K nói vậy thì T1 cũng hiểu ý là N đem ma túy tổng hợp bán cho khách. Khi Nguyễn Văn N đi giao ma túy cho Phạm Bảo S, Triệu Văn K ở phòng trọ nhắn tin qua Messenger cho Lý Mùi P, lúc này P đang trên đường đi xe ô tô khách từ thành phố Thái Nguyên lên xã V, huyện B, Triệu Văn K đã nhắn tin cho Lý Mùi P biết là P đang đến quán hát để phục vụ khách sử dụng ma túy và có Nguyễn Văn N đang mang ma túy tổng hợp dạng viên (gọi là kẹo) và ma túy Ketamine (gọi là ke) xuống thì Lý Mùi P cũng hiểu ý là Nguyễn Văn N đem ma túy đến bán cho khách tại phòng hát mà P sắp đến để cùng Hoàng Thị D phục vụ.

Khi Nguyễn Văn N đến quán hát của Lương Đình N thì N đi vào phòng hát gặp Phạm Bảo S. N đưa cho S gói ma túy Ketamine và 02 viên ma túy tổng hợp, lúc này còn có Hoàng Thị D, Lý Mùi P đang ở trong phòng hát. Phạm Bảo S cầm lấy số ma túy của Nguyễn Văn N đưa cho, sau đó N, S, D, P uống bia, trong lúc uống bia thì S đưa cho N số tiền 300.000đ, gồm có 100.000đ mừng tuổi và 200.000đ để cảm ơn N đã đem ma túy xuống, mừng tuổi P 100.000đ. Sau đó N đọc số tài khoản 9889898688888 của Mai Văn H1 cho S để chuyển tiền. S dùng số tài khoản 049944960001 của S chuyển tiền cho Mai Văn H1 số tiền là 5.800.000đ (năm triệu tám trăm nghìn đồng). Khi có được chất ma túy thì S mở gói ma túy ra tự cắn một nửa viên, đưa cho Lý Mùi P sử dụng một nửa, viên ma túy tổng hợp còn lại S đưa cho D thì D tự cắn một nửa và đưa lại một nửa viên cho S. Sau khi sử dụng ma túy tổng hợp được một lúc thì Phạm Bảo S nhờ Nguyễn Văn N xào ma túy Ketamine thì N đồng ý và lấy đĩa sứ, bật lửa có sẵn trong phòng hát ra nhà vệ sinh dùng giấy vệ sinh đốt, hơ nóng đĩa lên sau đó quay lại phòng hát lấy ma túy Ketamine với S rồi đổ ma túy ra đĩa, N dùng tấm thẻ nhựa cứng mang theo người rồi trộn ma túy Ketamine, sau khi làm xong N đưa đĩa ma túy Ketamine cho S rồi N ra về luôn. Lý Văn T đi chúc tết quay về đến phòng hát thì S đưa một nửa viên ma túy tổng hợp còn lại cho T sử dụng rồi các đối tượng tiếp tục nghe nhạc. Sau đó S bảo D xào lại ma túy Ketamine thì D tiếp tục dùng bật lửa đốt nóng đĩa và tấm thẻ nhựa cứng của N để trộn lại ma túy Ketamine, sau đó D lấy ống hút làm bằng một tờ tiền mệnh giá 20.000đ do D đã làm sẵn trước đó khi đến quán hát. Sau đó D được sử dụng ma túy Ketamine 02 lần, S sử dụng 06 lần, P sử dụng 02 lần, T sử dụng 03 lần và nghe nhạc đến khoảng 19 giờ 00 cùng ngày khi S, T, D, P đang nghe nhạc trong phòng hát, chưa sử dụng hết số ma túy Ketamine còn lại thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Sau khi Nguyễn Văn N về đến phòng trọ tại khối phố H, thị trấn B thì gặp K và H ở trong phòng, lúc này H có hỏi N đi đâu về thì N nói cho H biết là vừa mang ma túy xuống bán cho khách ở dưới quán N1 giúp cho H1 xong. Sau khi nhận được thông tin nhóm của S, D, P bị lực lượng Công an bắt ở quán hát thì Nguyễn Văn N trốn sang thị trấn B, huyện B thuê phòng trọ để trốn và rủ Triệu Thị H sang ở cùng (do H là người yêu của N) đến ngày 08/02/2022 thì bị lực lượng Công an giữ khẩn cấp và sau đó tiến hành giữ khẩn cấp đối với Triệu Văn K, Phạm Văn T và Lý Mùi P về hành vi không tố giác tội phạm.

Ngoài ra, các đối tượng Nguyễn Văn N, Phạm Bảo S, Lý Văn T còn khai nhận như sau: Vào khoảng 22 giờ 00 ngày cuối tháng 9/2021 (không nhớ ngày) Lý Văn T gọi Mai Văn H1 để gọi 02 nhân viên nữ phục vụ trong phòng hát của T và Phạm Bảo S tại quán karaoke Cung Đình thuộc thôn L, xã L, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó N chở 02 nhân viên nữ (không nhớ là ai) đến phòng hát phục vụ T, S. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày thì Mai Văn H1 bảo Nguyễn Văn N mang ma túy lên đưa cho T. H1 lấy ma túy Ketamine đưa cho Nguyễn Văn N cầm lấy và mang đến quán Karaoke Cung Đình đưa cho T. Khi có được chất ma túy, Lý Văn T trả tiền trực tiếp cho N là 2.300.000đ. Sau đó N cầm số tiền trên về đưa cho Mai Văn H1. Khi có được chất ma túy chỉ có T và S cùng nhau sử dụng. Phạm Bảo S góp số tiền 600.000đ cho Lý Văn T để trả tiền mua ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 84/KL-PC09 ngày 09/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy Ketamine, có khối lượng 0,136 gam (đã trừ bì).

Tại Bản kết luận giám định số 167/KL-PC09 ngày 01/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam gồm 820.000đ (Tám trăm hai mươi nghìn đồng) trong 02 (hai) phong bì niêm phong gửi giám định đều là tiền thật.

Về vật chứng của vụ án:

01 đĩa sứ màu trắng, thu trên bàn tại phòng hát dùng để sử dụng trái phép chất ma túy; 01 thẻ nhựa cứng màu vàng, trên thẻ có chữ “Răng, Hàm, Mặt” là công cụ để giúp cho việc sử dụng ma túy Ketamine; 01 (một) phong bì ghi chữ “Số tiền 20.000đ tạm giữ khi bắt quả tang” dán kín, niêm phong, bên trong có 01 tờ tiền Polymer mệnh giá 20.000đ (hai mươi nghìn đồng). Là tiền của Hoàng Thị D được quấn thành dạng ống hút dùng để sử dụng ma túy Ketamine; 01 (một) phong bì ghi chữ “Tang vật thu giữ trên mặt đĩa sứ màu trắng thu tại phòng karaoke” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có một gói giấy đựng 0,115 gam Ketamine (phần hao hụt do dùng mẫu làm giám định hết) và vỏ bao gói (cũ); 01 (một) phong bì ghi chữ “Số tiền 800.000đ tạm giữ của Lý Văn T” đã được dán kín, niêm phong. Bên trong có 04 tờ tiền Polymer mệnh giá 200.000đ. Là tiền của Lý Văn T sẽ dùng với mục đích góp tiền cùng Phạm Bảo S để trả tiền ma túy và thuê nhân viên vào ngày 07/02/2022; 01 chiếc điện thoại di động iphone 8s plus, màu đen, số IMEI: 359499085280148, máy lắp sim số thuê bao: 0389117133 (trên sim có dòng số 8984048000022835796). Là điện thoại của Phạm Bảo S dùng để gọi cho Mai Văn H1 và Nguyễn Văn N để mua bán ma túy; 01 chiếc điện thoại di động SamSung Galaxy S8, màu đen, màu đen, số IMEI1: 358059082298427, IMEI2: 358060082298425, máy lắp sim số thuê bao: 0395621559 (trên sim có dòng số 8984048000005883055). Là điện thoại của Lý Văn T, liên quan đến hành vi phạm tội vào ngày 07/02/2022; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu vàng đồng, số IMEI: 359233066479985, máy lắp sim số thuê bao: 0397383187 (trên sim có dòng số 8984048000019933625). Máy có mật khẩu: 2000. Là điện thoại của Hoàng Thị D dùng liên lạc với Phạm Bảo S để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu đen, số IMEI 1: 359484085057340, máy lắp sim số thuê bao: 0336069681 (trên sim có dòng số 8984048000006415978). Mật khẩu máy: 0000. Đây là điện thoại của Lý Mùi P dùng liên lạc với Triệu Văn K, Hoàng Thị D, liên quan đến hành vi phạm tội; 01 chiếc điện thoại di động iphone 7 plus, màu đen, số IMEI: 355843083076574, máy lắp sim số thuê bao: 0356292356 (trên sim có dòng số 8984048000079741294). Là điện thoại của Nguyễn Văn N dùng liên lạc với Phạm Bảo S mua bán ma túy; 01 chiếc điện thoại di động OPPO A15, màu xanh-đen, màu đen, số IMEI1: 865787056790237, IMEI2: 865787056790229, máy lắp sim số thuê bao: 0368501854 (trên sim có dòng số 89840048000067164094). Là điện thoại của Triệu Thị H; 01 chiếc điện thoại di động Vsmart, màu tím, số IMEI 1: 351726113679943, số IMEI 2: 351726113679950, máy lắp sim số thuê bao: 0344081131 (trên sim có dòng số 8984048000071508763). Đây là điện thoại của Triệu Văn K dùng để nhắn tin cho Lý Mùi P, liên quan đến hành vi phạm tội; 01 chiếc điện thoại di động Realme C25, màu xám, số IMEI 1: 867864054461638, số IMEI 2: 867864054461620, máy lắp sim số thuê bao: 0985723475 (trên sim có dòng số 89840048000068658732). Là điện thoại của Phạm Văn T1; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 12S1- 133.98, số máy: JA39E0797488, số khung: RLHJA3905HY817340, màu S: Cam-đen-bạc, nhãn hiệu: HONDA WAVE, xe cũ. Là xe mô tô của Mai Văn H1, xe Nguyễn Văn N dùng để đi bán trái phép chất ma túy.

Đối với Mai Văn H1, sinh năm 1995, hộ khẩu thường trú: thôn T, xã V, huyện B, tỉnh Lạng Sơn là người đưa ma túy cho Nguyễn Văn N đi bán cho Phạm Bảo S và là người điều Hoàng Thị D và Lý Mùi P đi phục vụ hát và tổ chức sử dụng ma túy tại quán hát Karaoke Gold vào ngày 07/02/2022. Ngày 05/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn ra quyết định khởi tố bị can và Quyết định truy nã đối với Mai Văn H1 về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Do thời hạn điều tra vụ án đã hết nhưng chưa xác định được bị can Mai Văn H1 ở đâu, ngày 08/5/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn đã ra Quyết định tách vụ án hình sự để tiếp tục điều tra, xử lý bị can Mai Văn H1 theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Lương Đình N1 là chủ quán Karaoke Gold, quá trình điều tra xác định vào ngày 07/02/2022 anh Lương Đình N1 hoàn toàn không biết nhóm đối tượng trên có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng hát Karaoke của gia đình anh, nên không có đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với Lương Đình N1. Ngày 22/4/2022 chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bắc Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực văn hóa và quảng cáo, an ninh, trật tự đối với ông Lương Đình N1 với hình thức xử phạt: Phạt tiền, số tiền 52.500.000đ.

Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKS-BS ngày 06/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Bắc Sơn để xét xử các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255; Nguyễn Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 251; Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1 về tội “Không tố giác tội phạm” theo khoản 1 Điều 390 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D, Nguyễn Văn N, Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra về hành vi của mình đã gây ra và khẳng định các bị cáo bị truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Phần tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố các bị cáo và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Về Tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Nguyễn Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

Về áp dụng pháp luật:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn N.

Áp dụng khoản 1 Điều 390; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1.

Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Bảo S từ 08 năm đến 09 năm tù; bị cáo Lý Văn T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; bị cáo Hoàng Thị D từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù; bị cáo Nguyễn Văn N từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; bị cáo Triệu Văn K từ 01 năm đến 01 năm 04 tháng tù; bị cáo Triệu Thị H từ 01 năm đến 01 năm 04 tháng tù; bị cáo Phạm Văn T1 từ 09 tháng đến 01 năm tù; bị cáo Lý Mùi P từ từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D, Nguyễn Văn N.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy gồm: 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa cứng màu vàng, trên thẻ có chữ “Răng, Hàm, Mặt”; 01 (một) phong bì bên trong có một gói giấy đựng 0,115gam Ketamine.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 800.000đ của Lý Văn T; 01 (một) tờ tiền Polymer mệnh giá 20.000đ sử dụng làm ống hút ma túy tại phòng hát; 01 chiếc điện thoại di động iphone 8s plus, màu đen của Phạm Bảo S; 01 chiếc điện thoại di động SamSung Galaxy S8, màu đen, màu đen của Lý Văn T;

01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu vàng đồng của Hoàng Thị D; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu đen của Lý Mùi P; 01 chiếc điện thoại di động iphone 7 plus, màu đen của Nguyễn Văn N; 01 chiếc điện thoại di động Vsmart, màu tím của Triệu Văn K; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 12S1-133.98, màu S cam-đen-bạc của Mai Văn H1, xe Nguyễn Văn N dùng để đi bán trái phép chất ma túy.

Truy thu để sung ngân sách Nhà nước khoản tiền do phạm tội mà có của bị cáo Nguyễn Văn N là 300.000đ.

Trả lại tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội gồm: Trả cho bị cáo Triệu Thị H 01 chiếc điện thoại di động OPPO A15, màu xanh-đen, điện thoại đã qua sử dụng; bị cáo Phạm Văn T1 01 chiếc điện thoại di động Realme C25, màu xám, điện thoại đã qua sử dụng.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật để sung ngân sách Nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng của các bị cáo là đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và mong được xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D, Nguyễn Văn N, Triệu Văn K, Triệu Thị H, Phạm Văn T1 và Lý Mùi P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đã có đủ cơ sở để khẳng định: Trưa ngày 07/02/2022, Phạm Bảo S và Lý Văn T bàn bạc, rủ nhau cùng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Phạm Bảo S liên lạc với Mai Văn H1 để mua 02 viên ma túy tổng hợp và 01 chỉ ma túy Ketamine ma túy và thuê hai nhân viên nữ là Hoàng Thị D và Lý Mùi P. Mai Văn H1 đồng ý và đưa ma túy cho Nguyễn Văn N để mang xuống quán Karaoke Gold ở xã V bán cho Phạm Bảo S với giá 5.800.000đ (bao gồm tiền ma túy và tiền thuê nhân viên). Ngoài ra các bị cáo Nguyễn Văn N, Phạm Bảo S, Lý Văn T còn khai nhận vào khoảng 22 giờ 00 ngày cuối tháng 9/2021 (không nhớ ngày) Lý Văn T gọi Mai Văn H1 để gọi 02 nhân viên nữ phục vụ trong phòng hát của T và Phạm Bảo S tại quán karaoke Cung Đình thuộc thôn L, xã L, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó N chở 02 nhân viên nữ (không nhớ là ai) đến phòng hát phục vụ T, S. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày thì Mai Văn H1 bảo Nguyễn Văn N mang ma túy lên đưa cho T. H1 lấy ma túy Ketamine đưa cho Nguyễn Văn N cầm lấy và mang đến quán Karaoke Cung Đình đưa cho T. Khi có được chất ma túy, Lý Văn T trả tiền trực tiếp cho N là 2.300.000đ. Sau đó N cầm số tiền về đưa cho Mai Văn H1. Khi có được chất ma túy chỉ có T và S cùng nhau sử dụng, Phạm Bảo S góp số tiền 600.000đ cho Lý Văn T để trả tiền mua ma túy. Quá trình trao đổi việc mua bán ma túy giữa Mai Văn H1 và Phạm Bảo S vào ngày 07/2/2022, Triệu Văn K có nghe được, khi thấy Nguyễn Văn N đi bán ma túy cho khách thì K cũng biết và có kể lại sự việc này cho Lý Mùi P và Phạm Văn T1 biết. Chiều ngày 07/02/2022 khi đi bán ma túy về Nguyễn Văn N đã kể lại sự việc cho Triệu Thị H là bạn gái của N biết, sau đó N và H cùng sang huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn để bỏ trốn. Đến khoảng 19 giờ, ngày 07/02/2022 các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D và Lý Mùi P đang tổ chức sử dụng ma túy tại phòng hát Karaoke Gold thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ chất dạng tinh thể màu trắng trên 01 đĩa sứ màu trắng, qua giám định là chất ma túy Ketamine, có khối lượng 0,136 gam (đã trừ bì). Qua test ma túy các đối tượng Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D và Lý Mùi P đều cho kết quả dương tính với ma túy, tên loại ma túy sử dụng MET, MDMA. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255; Nguyễn Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 251; Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1 phạm tội “Không tố giác tội phạm” theo khoản 1 Điều 390 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hµnh vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, vi phạm đến chính sách pháp luật của Nhà nước về cấm các chất ma túy, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguốn nguy cơ phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bản thân các bị cáo người đã trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vì ham chơi, lười lao động nên có hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi của các bị cáo cần xử lý nghiêm trước pháp luật và áp dụng một mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cho từng bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa các tội phạm khác.

[4] Để cá thể hóa hình phạt, ngoài việc xem xét hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ của từng bị cáo để quyết định hình phạt.

[5] Xét về vai trò của các bị cáo: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là đồng phạm, cụ thể: Bị cáo Phạm Bảo S là người khởi xướng, chủ mưu rủ Lý Văn T mua ma túy về sử dụng, đồng thời là người trực tiếp liên hệ với H1 để mua ma túy, liên hệ với Hoàng Thị D, Lý Mùi P để cùng sử dụng ma túy; đối với Lý Văn T và Hoàng Thị D là cùng người thực hành, giúp sức, tuy nhiên đối với Hoàng Thị D tham gia tích cực hơn là được Phạm Bảo S nhắn tin mời đến quan hát cùng sử dụng ma túy vừa là người trực tiếp được chuẩn bị dụng cụ như ống hút ma túy và giới thiệu gửi ảnh Lý Mùi P cho Phạm Bảo S để đến cùng sử dụng ma túy. Đối với Nguyễn Văn N không trực tiếp giao dịch trong việc mua bán ma túy với Phạm Bảo S mà là người giúp sức theo sự phân công của Mai Văn H1 đã trực tiếp nhận ma túy với H1 đem giao bán cho Phạm Bảo S tại quán Karaoke Gold tại xã V, ngoài ra bị cáo Nguyễn Văn N thừa nhận vào tháng 9 năm 2021 có đem ma túy bán cho Lý Văn T 01 lần tại quán Karaoke Cung Đình tại thị trấn B. Do vậy bị cáo Nguyễn Văn N thực hiện với vai trò giúp sức cho Mai Văn H1 mua bán trái phép chất ma túy. Đối với bị cáo Triệu Văn K có nghe được Mai Văn H1 và Phạm Bảo S gọi điện giao dịch mua ma túy để sử dụng mà không ngăn chặn, tố giác mà còn nói cho Triệu Thị H, Phạm Văn T1 và Lý Mùi P biết là Nguyễn Văn N đi ship đồ (ma túy) cho khách ở quan hát; đối với bị cáo Triệu Thị H không chỉ được bị cáo Triệu Văn K nói lại mà còn được bị cáo Nguyễn Văn N sau đi bán ma túy cho Phạm Bảo S xong về đến phòng trọ nói là vừa mang ma túy xuống bán cho khách ở dưới quán N1 giúp cho Mai Văn H1 xong mà bị cáo H cũng không có biện pháp ngăn chặn, tố giác kịp thời về hành vi mà các bị cáo gây ra nên cả hai bị cáo Triệu Văn K, Triệu Thị H phải chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo Phạm Văn T1, Lý Mùi P về hành vi không tố giác tội phạm. Như vậy, với vai trò của các bị cáo thực hiện nêu trên thì các bị cáo phải chịu mức hình phạt khác nhau tương xứng với hành vi mà các bị cáo gây ra.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự nên các bị cáo đều có nhân thân tốt.

[7] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[8] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D và Nguyễn Văn N có thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Đối với các bị cáo Triệu Văn K, Triệu Thị H, Phạm Văn T1 và Lý Mùi P phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau phạm tội có thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, cần áp dụng một mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra và cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, qua xác minh tại địa phương và làm rõ tại phiên tòa các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D, Nguyễn Văn N đều không có nghề nghiệp và không có tài sản riêng gì có giá trị. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[11] Đối với anh Lương Đình N1 là chủ quán Karaoke Gold không biết được các bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy trong phòng hát nên không đủ căn cứ xử lý. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền 52.500.000đ.

[12] Đối với Mai Văn H1 là người đưa ma túy cho Nguyễn Văn N đi bán cho Phạm Bảo S và là người điều Hoàng Thị D và Lý Mùi P đi phục vụ hát và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại quán hát Karaoke Gold vào ngày 07/02/2022. Ngày 05/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn ra quyết định khởi tố bị can và Quyết định truy nã đối với Mai Văn H1 về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Do thời hạn điều tra vụ án đã hết nhưng chưa xác định được Mai Văn H1 ở đâu, ngày 08/5/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn đã ra Quyết định tách vụ án hình sự để tiếp tục điều tra và xử lý Mai Văn H1 theo quy định của pháp luật.

[13] Về vật chứng vụ án: Xét thấy, các đồ vật, tài sản thu giữ của các bị cáo đã được làm rõ tại phiên tòa cần được xử lý như sau: Tịch thu và tiêu hủy gồm: 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa cứng màu vàng, trên thẻ có chữ “Răng, Hàm, Mặt”; 01 (một) phong bì bên trong có một gói giấy đựng 0,115gam Ketamine. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 800.000đ của Lý Văn T;

01 tờ tiền Polymer mệnh giá 20.000đ các bị cáo sử dụng làm ống hút ma túy; 01 chiếc điện thoại di động iphone 8s plus, màu đen của Phạm Bảo S; 01 chiếc điện thoại di động SamSung Galaxy S8, màu đen của Lý Văn T; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu vàng đồng của Hoàng Thị D; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu đen của Lý Mùi P; 01 chiếc điện thoại di động iphone 7 plus, màu đen của Nguyễn Văn N; 01 chiếc điện thoại di động Vsmart, màu tím của Triệu Văn K; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 12S1- 133.98, màu S cam-đen-bạc của Mai Văn H1, xe Nguyễn Văn N dùng để đi bán trái phép chất ma túy. Truy thu để sung ngân sách Nhà nước khoản tiền do phạm tội mà có của bị cáo Nguyễn Văn N là 300.000đ. Trả lại tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội gồm: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A15, màu xanh-đen cho bị cáo Triệu Thị H; 01 chiếc điện thoại di động Realme C25, màu xám cho bị cáo Phạm Văn T1.

[14] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các nội dung khác của vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Về án phí: Các bị cáo bị kết án phạm tội nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước theo quy định.

[16] Quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn N;

Căn cứ khoản 1 Điều 390; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1;

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Nguyễn Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Triệu Văn K, Triệu Thị H, Lý Mùi P và Phạm Văn T1 phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Bảo S 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/02/2022.

Xử phạt bị cáo Lý Văn T 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/02/2022.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị D 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/02/2022.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 08/02/2022.

Xử phạt bị cáo Triệu Văn K 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 11/02/2022.

Xử phạt bị cáo Triệu Thị H 01 (môt) năm tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 08/02/2022.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 11/02/2022.

Xử phạt bị cáo Lý Mùi P từ 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày bị bắt tạm giam 11/02/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Phạm Bảo S, Lý Văn T, Hoàng Thị D, Nguyễn Văn N.

3. Về vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy gồm: 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa cứng màu vàng, trên thẻ có chữ “Răng, Hàm, Mặt”; 01 (một) phong bì bên trong có một gói giấy đựng 0,115gam Ketamine.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 800.000đ của Lý Văn T; 01 tờ tiền Polymer mệnh giá 20.000đ của bị cáo D; 01 chiếc điện thoại di động iphone 8s plus, màu đen của Phạm Bảo S; 01 chiếc điện thoại di động SamSung Galaxy S8, màu đen, màu đen của Lý Văn T; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu vàng đồng của Hoàng Thị D; 01 chiếc điện thoại di động iphone6 màu đen của Lý Mùi P; 01 chiếc điện thoại di động iphone 7 plus, màu đen của Nguyễn Văn N; 01 chiếc điện thoại di động Vsmart, màu tím của Triệu Văn K; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 12S1- 133.98, màu S cam-đen-bạc của Mai Văn H1.

Truy thu để sung ngân sách Nhà nước khoản tiền do phạm tội mà có của bị cáo Nguyễn Văn N 300.000đ.

Trả lại tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội gồm: 01 chiếc điện thoại di động OPPO A15, màu xanh-đen cho bị cáo Triệu Thị H; 01 chiếc điện thoại di động Realme C25, màu xám cho bị cáo Phạm Văn T1;

4. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

378
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và không tố giác tội phạm số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về