Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túysố 45/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 45/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-HS ngày 14/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 13/6/1988 Tại: Tam Đường, Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản NH, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Lào; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm Ruộng; con ông: Lò Văn PH, sinh năm 1964; con bà: Lò Thị B (đã chết); Gia đình bị cáo có 03 anh em ruột. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; có vợ là: Lò Thị CH sinh năm 1988 và 02 con (con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2021); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Lò Văn S bị bắt, tạm giữ từ ngày 16/5/2022 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TĐ, tỉnh Lai Châu cho đến nay “có mặt”.

* Người làm chứng:

1. Vàng Văn N, sinh năm 1984. Địa chỉ: Bản Nà Ít, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu (vắng mặt không có lý do)

2. Trần Văn C, sinh năm 1975. Địa chỉ: Tổ A, phường ĐP, thành phố LC, tỉnh Lai Châu (vắng mặt không có lý do)

3. Sùng A V, sinh năm 1971. Địa chỉ: Bản HTM, xã LNT, huyện PT, tỉnh Lai Châu (vắng mặt không có lý do)

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn S :

Ông Lê Mạnh H – Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 15/5/2022 Lò Văn S đang ở nhà mình tại Bản NH, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu thì có một người nam giới tên C khoảng 35 tuổi trú tại xã MK, huyện TU (C tự giới thiệu) đến nhà S hỏi bán Heroine cho S, S đồng ý mua. Qua trao đổi S mua được của C 01 gói Heroine được gói bằng ni lon màu xanh buộc thắt nút một đầu với giá 2.500.000 đồng. Mua được Heroine S cất giấu trong phòng ngủ của mình còn Chung đi đâu, làm gì S không biết.

Đến sáng ngày 16/5/2022 thấy gia đình không có ai ở nhà nên S cầm số Heroine mua được từ hôm 15/5/2022 dùng dao lam chia thành 18 gói Heroine trong đó 17 gói nhỏ mỗi gói đều được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh đốt dính một đầu để bán kiếm lời và 01 gói to được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh được buộc thắt nút một đầu để bán kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Chia ma túy xong S cất giấu 17 gói nhỏ vào 01 lọ nhựa màu trắng sau đó cất vào túi áo khoác bên phải đang mặc trên người, còn 01 gói to S cất giấu vào lọ nhựa C sủi màu vàng rồi cất giấu trong buồng ngủ của S không cho ai biết. Đến khoảng hơn 11 giờ cùng ngày Vàng Văn N trú tại bản Nà Ít, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu đi đến nhà Lò Văn S để mua Heroine, khi đến nhà S N gặp Trần Văn C trú tại Tổ A, phường ĐP, thành phố LC, tỉnh Lai Châu; Sùng A V trú tại Bản HTM, xã LNT, huyện PT, tỉnh Lai Châu đi đến nhà S để mua Heroine. Gặp S ở cửa xuống nhà bếp N và C hỏi mua Heroine của S đồng thời mỗi người đưa cho S 100.000 đồng, S đồng ý bán, cầm tiền N và C đưa S lấy 02 gói Heroine mỗi gói đều được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh đốt dính một đầu trong lọ nhựa màu trắng tại túi áo khoác bên phải đang mặc trên người đưa cho N và C mỗi người một gói. Bán Heroine cho N và C xong Sùng A V hỏi mua Heroine của S và đưa cho S 100.000 đồng, cầm tiền V đưa S cất vào trong ví rồi lấy 01 gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh đốt dính một đầu trong lọ nhựa màu trắng đưa cho V. Mua được Heroine N xin S được sử dụng Heroine tại bếp của S, S đồng ý và bảo “Cả ba sử dụng ma túy nhanh để S còn đi ăn cơm” sau đó C, V, N cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy tại bếp nhà S. Đến khoảng 11 giờ 50 phút cùng ngày, Tổ công tác phòng PC04 Công an tỉnh Lai Châu phối hợp với Công an xã NT trong khi làm nhiệm vụ tại Bản NH, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang Trần Văn C, Sùng A V sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức hít, Vàng Văn N sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức chích tại bếp nhà Lò Văn S. Kiểm tra trên người S phát hiện thu giữ trong túi áo khoác bên phải S đang mặc có một lọ nhựa màu trắng bên trong có 14 gói Heroine mỗi gói được gói ngoài bằng nilon màu xanh đốt dính một đầu và số tiền 300.000 đồng do S bán Heroine cho N, C, V mà có.

Cùng ngày 16/5/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lò Văn S. Khi thi hành lệnh khám xét Lò Văn S đã tự giác vào buồng ngủ của S lấy lọ C sủi màu vàng bên trong có một gói Heroine được gói bằng ni lon màu xanh giao nộp cho Cơ quan Công an.

Tại bản kết luận giám định số 422/KL-KTHS ngày 18/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu. Kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn S trong quá trình bắt quả tang có tổng khối lượng là 1,07 gam (Một phẩy không bảy gam).

Số chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn S trong quá trình khám xét có khối lượng là 1,38 gam (Một phẩy ba mươi tám gam).

Tại bản kết luận giám định số 423/KL-KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 02 Mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu M1, M2) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine;

Tại bản kết luận giám định số 424/KL-KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Số tiền 300.000 VNĐ gửi đến giám định là tiền thật.

Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ của Vàng Văn N 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; thu giữ của Trần Văn C 01 bật lửa ga màu vàng, 01 mảnh giấy bạc đã qua sử dụng; thu giữ của Sùng A V 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc đã qua sử dụng.

Bản cáo trạng số 34/CT-VKSTĐ, ngày 08/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ truy tố bị cáo Lò Văn S về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và tội “ Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 251 và điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện TĐ giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và “ Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Về hình phạt:

Đề nghị áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; xử phạt từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Quyết định hình phạt cho cả hai tội từ 14 năm đến 15 năm tù.

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy:

- 02 lọ nhựa “01 lọ nhựa màu trắng, một lọ nhựa nắp màu vàng. Trên thân hộp ghi: Viên sủi Multivitanin Pluzzs”;

- 01 bật lửa màu vàng + 01 giấy bạc đã hơ cháy;

- 01 bật lửa màu đỏ + 01 giấy bạc đã hơ cháy;

- 01 xi lanh đã qua sử dụng;

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Bị cáo Lò Văn S không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Lò Văn S đã phân tích đánh giá các tình tiết của vụ án, hành vi, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhất thời phạm tội. Đề nghị áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm d khoản 2 Điều 256; các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp của khung hình phạt đối với các tội danh; Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo Lò Văn S nhất trí với quan điểm của người bào chữa và không có tranh luận gì với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát.

Tại lời nói sau cùng các bị cáo Lò Văn S xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Lò Văn S đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng hơn 11 giờ ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại nơi ở của mình thuộc Bản NH, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu Lò Văn S cùng lúc bán trái phép 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng cho Vàng Văn N và Trần Văn C mỗi người một gói Heroine. Bán Heroine cho N và C xong, S tiếp tục bán 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng cho Sùng A V. Bán Heroine xong S đồng ý cho N, C, V sử dụng trái phép chất ma túy tại bếp nhà Lò Văn S. Còn lại 15 gói Heroine có tổng khối lượng là 2,45 gam Lò Văn S tàng trữ để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời nhưng chưa kịp thực hiện thì bị phòng PC04 công an tỉnh Lai Châu phối hợp với công an xã NT, huyện TĐ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng và số tiền 300.000 đồng do S bán Heroine mà có.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện chất ma túy nên đã thúc đẩy các bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Hành vi của bị cáo Lò Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 251 và điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật hình sự.

Nội dung bản cáo trạng truy tố, căn cứ đề nghị của Viện kiểm sát huyện TĐ đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Bị cáo có đủ điều kiện nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, gây tổn hại cho sức khỏe của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Nhà nước ta đang đấu tranh quyết liệt để loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội và xử phạt nghiêm khắc đối với những người nào có các hành vi liên quan đến ma túy. Bị cáo S mua ma túy của người khác sau đó chia thành nhiều gói nhỏ để bán kiếm lời, khi có người đến mua ma túy bị cáo đã bán một lần hai gói ma túy cho N, C thu được 200.000 đồng; sau đó bán cho V một gói thu 100.000 đồng và đồng ý cho ba người này sử dụng ma túy ngay tại nhà của bị cáo. Xét cần phải có một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Về các tình tiết giảm nhẹ bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; khi khán xét bị cáo đã tự giao nộp số ma túy đang tàng trữ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản gì đáng giá nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 256 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đối với người nam giới tên Chung đã bán Heroine cho bị cáo S vào ngày 15/5/2022 tại Bản NH, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu, bị cáo biết tên là Chung ở Mường Khoa do Chung tự giới thiệu. Quá trình điều tra cơ quan CSĐT đã xác minh tại xã Mường khoa không có người nam giới như S khai nhận. Do nhân thân lai lịch của người nam giới này không rõ ràng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý;

Đối với Vàng Văn N, Trần Văn C, Sùng A V có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đã sử dụng hết). Đây là hành vi vi phạm hành chính nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lai Châu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Vàng Văn N, Trần Văn C, Sùng A V bằng hình thức cảnh cáo.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Vật chứng:

Đối với: 02 lọ nhựa “01 lọ nhựa màu trắng, một lọ nhựa nắp màu vàng. Trên thân hộp ghi: Viên sủi Multivitanin Pluzzs”; 01 bật lửa màu vàng + 01 giấy bạc đã hơ cháy; 01 bật lửa màu đỏ + 01 giấy bạc đã hơ cháy; 01 xi lanh đã qua sử dụng; Là vật chứng của vụ án và là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Lò Văn S, đây là số tiền bị cáo bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước .

[4] Án phí:

Áp dụng điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b,c khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm d khoản 2, khoản 3 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lò Văn S 07 (bẩy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 07 (bẩy) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, quyết định hình phạt chung của tội mà bị cáo S phải chấp hành là 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2022. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 02 lọ nhựa “01 lọ nhựa màu trắng, một lọ nhựa nắp màu vàng. Trên thân hộp ghi: Viên sủi Multivitanin Pluzzs”; 01 bật lửa màu vàng + 01 giấy bạc đã hơ cháy; 01 bật lửa màu đỏ + 01 giấy bạc đã hơ cháy; 01 xi lanh đã qua sử dụng;

Tịch thu nộp N sách nhà nước số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Lò Văn S.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 15 phút ngày 09/9/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ với Chi Cục thi hành án dân sự huyện TĐ).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn S

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túysố 45/2022/HS-ST

Số hiệu:45/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về