TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H - TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 24/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La; Xét xử sơ thẩm công Kh vụ án hình sự thụ lý số: 54/2023/TLST- ST ngày 09 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2023/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:
Tráng A S; tên gọi khác: Không, sinh năm 2003, sinh tại: huyện VH, tỉnh Sơn La. Nơi ĐKHKTT: Bản C T, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La. Giới tính: Nam, Tôn giáo: không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Mông; Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Con ông: Tráng A S, con bà Giàng Thị N; bị cáo có vợ là Sồng Thị G, sinh năm 2001, bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2018, con nhỏ nhất sinh 2020.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12 tháng 8 năm 2022 đến nay, có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 00, ngày 12/8/2022, Tổ công tác Công an huyện VH làm nhiệm vụ tại Bản C T, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La phát hiện hai người đàn ông, một người đi trên một chiếc xe máy, một người đi bộ trên đường dân sinh, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Khi người điều khiển xe máy đến gần Tổ công tác thì bất ngờ quay xe bỏ chạy, người đi bộ được yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, người này Kh tên là Tráng A S, người bỏ chạy là Tráng A L ở cùng bản C T với S. Tổ công tác kiểm tra đồng thời phát hiện, trong túi nilon màu xanh S cầm trên tay đựng 18 quả su su, trong đó có một quả được khoét rỗng giữa, bên trong chứa 01 gói nilon màu đen, tiếp đến là một gói nilon màu xanh đựng 161 viên nén màu hồng, bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, S thừa nhận đó là Hồng Phiến. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, tạm giữ của S túi nilon màu xanh đựng 18 quả su su, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu trắng bên trong lắp 02 sim số X.760.100 và X.690.116 và dẫn giải Tráng A S về CQĐT để xử lý.
Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh 161 viên nén màu hồng, thu giữ của Tráng A S, xác định có tổng khối lượng là 17,34 gam, lấy 10 viên có khối lượng 1,08 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, ký hiệu S.
Tại bản kết luận giám đinh số 1384/KLMT ngày 16/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám đinh ký hiệu S là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,08 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 17,34 gam, loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Không”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Kh nhận: Khoảng 19 giờ ngày 11/8/2022, trong khi đang ở nhà, S nhận được tin nhắn của nick Facebook có tên “Hoàng Thị Khánh Uyên” qua ứng dụng Messengger để hỏi mua Hồng Phiến của S. Khoảng 07 giờ 00, ngày 12/8/2022, Uyên nhắn tin muốn mua 01 túi Hồng Phiến, đồng thời bảo S đưa số ma túy cho anh trai Uyên sẽ đến lấy. S đồng ý, đồng thời gửi số điện thoại X.690.116 cho Uyên để liên lạc. Khoảng 08h00 cùng ngày, có một người đàn ông dùng số thuê bao X.732.611 gọi đến số thuê bao S đã cung cấp cho Uyên, tự giới thiệu là anh trai của Uyên đến lấy ma túy. S hẹn người này đợi ở ngã 3, đường Quốc Lộ 6 rẽ vào bản C T để trao đổi việc mua bán ma túy. S đi bộ đến nhà Tráng A L, nói việc có người đặt mua ma túy. L đồng ý, rồi đi ra ngoài một lúc quay về đưa cho S 01 túi ma túy, nói có giá trị 3.000.000 đồng. S và L thống nhất sẽ bán túi ma túy đó với giá 5.000.000 đồng, tiền lãi bán được sẽ chia đôi. Tiếp đó, cả hai về vườn nhà S, hái được 18 quả su su. S lấy một quả su su, dùng một chiếc thìa gãy khoét rỗng ruột quả su su đó rồi cất giấu gói Hồng Phiến vào bên trong, ghép hai mảnh quả su su lại, cho tất cả 18 quả su su vào một túi nilon màu xanh cầm trên tay. L điều khiển xe máy chở S cùng ra Quốc Lộ 6 để giao dịch bán ma túy. Đến nơi, S xuống xe đi bộ, còn L điều khiển xe máy đi trên đường dân sinh bản C T thì gặp tổ công tác Công an huyện VH, Lliền quay xe, tăng ga bỏ chạy, còn S bị Công an huyện VH bắt giữ.
Quá trình điều tra cũng xác minh được, người sử dụng Nick Facebook “ Hoàng Thị Khánh Uyên”. Ngày 12/8/2022 S liên hệ với số điện thoại X.732.611 để thực hiện việc mua bán ma túy. Cơ quan điều tra xác minh, chủ thuê bao X.732.611 là chị Vì Thị Y, sinh năm 1984, địa chỉ: Bản C, xã Đ S, huyện M C, tỉnh Sơn La. Tráng A S khẳng định, người sử dụng Nick facebook và số điện thoại trên không phải là chị Vì Thị Y. Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý đối tượng tên Nick Facebook tên Uyên.
Đối với Tráng A L là người điều khiển xe máy chạy thoát, ở cùng bản với Tráng A S. Cơ quan điều tra xác minh, Tráng A L còn có tên là Tráng A K, sinh năm 2001, địa chỉ: Bản C T, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La. Hiện Tráng A K đã bỏ trốn khỏi địa phương, gia đình và chính quyền không biết Kh đang ở đâu. Cơ quan điều tra đã quyết định truy tìm Tráng A K và quyết định tách hành vi của Tráng A K xử lý trong một vụ án khác.
Chiếc thìa gãy, Tráng A S dùng để khoét ruột quả su su, cất giấu trái phép chất ma túy đem bán, CQĐT tiến hành truy tìm, nhưng không có kết quả.18 quả su su, trong đó có một quả đã khoét rỗng ruột đã được CQĐT xử lý bằng cách tiêu hủy.
Bản Cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 07/3/2023 của Viện kiểm sát nhân huyện VH, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Tráng A S về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tráng A S phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
+ Đề nghị áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Tráng A S từ 10 (mười) năm 06 (Sáu) tháng đến 11 (Mười một) năm tù.
Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:
+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V21.1 vỏ màu trắng, số Imel 1: 86142805182831, số Imel 2: 861528051828623 bên trong lắp 02 sim số X.760.100 và X.690.116, màn hình trước bị vỡ xước, đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói ban đầu + phong bì niêm phong ban đầu + 16,26 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy của Tráng A S;
Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Ngày 12/8/2022, Tráng A S bị phát hiện bắt quả tang tàng trữ trái phép 17,34 gam Hồng Phiến (Methamphetamine) với giá 3.000.000 đồng mục đích đem bán lại với giá 5.000.000 đồng thu lợi bất chính 2.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo, đã có đủ căn cứ cấu thành tội phạm: Mua bán trái phép chất ma túy, căn cứ vào điểm i khoản 2 điều 251 BLHS.
[2]. Tính chất hành vi của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, phạm tội rất nghiêm trọng, xâm hại chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng cố tình phạm tội, cần bị xử phạt nghiêm, tương xứng hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn Kh báo, là dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật hạn chế, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, do vậy, không áp dụng phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói ban đầu + phong bì niêm phong ban đầu + 16,26 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy của Tráng A S, là những vật không còn giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.
01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V21.1 vỏ màu trắng, số Imel 1: 86142805182831, số Imel 2: 861528051828623 bên trong lắp 02 sim số X.760.100 và X.690.116, là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện liên lạc thực hiện tội phạm. Do vậy, cần tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
18 quả su su, trong đó có một quả đã khoét rỗng ruột đã được CQĐT xử lý bằng cách tiêu hủy là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật, được chấp nhận.
[6] HĐXX xét thấy hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện VH; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện VH trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời Kh nhận của bị cáo tại phiên tòa. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Về nguồn gốc chất ma túy: Bị cáo Tráng A S Kh số ma túy trên là do Tráng A L (Tráng A K) mua. Hiện chưa truy tìm được Tráng A L (Kh). Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối tượng bán ma túy và Tráng A L (Kh).
Kiến nghị Cơ quan điều tra Công an huyện VH tiếp tục truy tìm đối với Tráng A L (Tráng A K) để xử lý.
[8] Đối với người sử dụng Nick Facebook “ Hoàng Thị Khánh Uyên”. Ngày 12/8/2022 S liên hệ với số điện thoại X.732.611 để thực hiện việc mua bán ma túy. Cơ quan điều tra xác minh, chủ thuê bao X.732.611 là chị Vì Thị Y, sinh năm 1984, địa chỉ: Bản C, xã Đ S, huyện M C, tỉnh Sơn La. Tráng A S khẳng định, người sử dụng Nick facebook và số điện thoại trên không phải là chị Vì Thị Y. Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý đối tượng tên Nick Facebook tên Uyên là có căn cứ, được chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số, sống nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm i khoản 2 điều 251, điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Tráng A S phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Tráng A S 10 (Mười) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12/8/2022.
Không phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tuyên tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói ban đầu + phong bì niêm phong ban đầu + 16,26 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy của Tráng A S.
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo V21.1 vỏ màu trắng, số Imel 1: 86142805182831, số Imel 2: 861528051828623 bên trong lắp 02 sim số X.760.100 và X.690.116, màn hình trước bị vỡ xước, đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.
Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao vật chứng số 53/BBVC – CCTHA, ngày 09/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VH.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túysố 44/2023/HS-ST
Số hiệu: | 44/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về