TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 99/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 14/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2023/HSST, ngày 25/8/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2023/QĐXXST-HS, ngày 31/8/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1982; Nơi sinh: Huyện Đ, tỉnh Đ; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Tin Tốc A, xã Pú Hồng, huyện Đ, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Lò Văn I, sinh năm 1946 và con bà Lò Thị X, đã chết; Gia đình có 04 anh, chị, em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ: Lò Thị P, sinh năm 1985 (đã ly hôn); con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án; tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại quyết định số: 28/QĐ-TA, ngày 21/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ về việc ap dụng biện phap đưa vao cơ sở giao dục bắt buộc đối với Lò Văn T thời hạn 20 tháng. Đến ngày 30/01/2019, Lò Văn T chấp hành xong Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/5/2023,hiện bị cáo đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện P. (Có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
+ Anh: Sùng A T, sinh năm 1995 Địa chỉ: Bản Sân Bay, xã Sin Suối Hồ, huyện P, tỉnh C (Vắng mặt tại phiên toà có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người tham gia tố tụng khác.
- Những người làm chứng.
+ Anh Mào Văn T, sinh năm 1964 Địa chỉ: Bản Thèn Sin 2, xã Thèn Sin, huyện Tam Đường, tỉnh C (Vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do).
+ Anh Sùng A C, sinh năm 1978
+ Anh Sùng A P, sinh năm 1978 Địa chỉ: Đều trú tại Bản Sân Bay, xã Sin Suối Hồ, huyện P, tỉnh C (Vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lò Văn T trú tại bản Tin Tốc A, xã Pú Hồng, huyện Đ, tỉnh Đ là công nhân làm đường tại công ty Mạnh Quân. Do có quan hệ thông gia với Mào Văn T trú tại bản Thèn Sin 2, xã Thèn Sin, huyện Tam Đường, tỉnh C nên T ở lại lán của Tiến trong thời gian làm đường.
Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 30/4/2023. Lò Văn T cùng Mào Văn T cùng nhau góp tiền đi mua Heroine về để sử dụng cho bản thân (mỗi người góp 100.000 đồng). Góp tiền xong, Tiến đi đến bản Thèn Sin 1, xã Thèn Sin, huyện Tam Đường để mua Heroine, trên đường đi Tiến gặp một người nam giới khoảng 10 tuổi không rõ nhân thân lai lịch, do không biết địa điểm bán Heroine nên Tiến nhờ người nam giới mua hộ Heroine và đưa cho người này 200.000 đồng, người này nhất trí, cầm tiền Tiến đưa, người này đi đâu, làm gì Tiến không biết. Khoảng 15 phút sau, người nam giới đi đến chỗ tiến và đưa cho Tiến 02 gói Heroine mỗi gói đều được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh đốt túm một đầu. Mua được Heroine, Tiến đi về lán tại bản Thèn Sin, xã Thèn Sin và cùng Lò Văn T sử dụng hết 01 gói Heroine bằng hình thức hít. Sử dụng Heroine xong, T cầm 01 gói Heroine còn lại cho vào gói thuốc lào rồi cất giấu vào ống tre trên nóc lán, đến khoảng 06 giờ ngày 01/5/2023, Mào Văn T đi về nhà tại bản Thèn Sin 2, xã Thèn Sin, còn Lò Văn T vẫn ở tại lán. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, T một mình lấy gói ma túy còn lại cấu ra một ít sử dụng bằng hình thức hít, sử dụng ma túy xong, T lấy mảnh nilon màu hồng gói lại rồi cất giấu vào vị trí ban đầu. Đến khoảng hơn 09 giờ cùng ngày T đi bộ một mình đến xã Sin Suối Hồ chơi.
Đến khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 01/5/2023, có Sùng A P và Sùng A C cùng trú tại bản Sân Bay, xã Sin Suối Hồ cùng nhau góp tiền đi mua Heorine về sử dụng cho bản thân, P góp 46.000 đồng C góp 50.000 đồng, sau đó P điều khiển xe mô tô BKS 25B1-xxxxx chở theo Sùng A C đi đến bản Căn Câu, xã Sin Suối Hồ để mua Heroine. Khi đi đến bản Căn Câu do đau bụng nên C bảo P dừng xe để C đi vệ sinh sau đó C đi vào bụi cây ven đường còn P đứng ở trên đường đợi thì gặp Lò Văn T đang đi bộ ngoài đường, gặp T nhìn T giống người sử dụng ma tuý nên P hỏi mua Heroine của T và đưa cho T số tiền 96.000 đồng, cầm tiền P đưa, T bảo P đứng ở đây đợi rồi một mình đi về lán của Mào Văn T lấy gói Heroine còn lại cầm ở tay phải rồi đi bộ đến chỗ P đứng đợi tại bản Căn Câu, xã Sin Suối Hồ. Gặp P, T đưa cho P 01 gói Heroine đươc gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, bán Heroine cho P xong T đi về lán của Tiến để nấu ăn còn P sau khi mua được Heroine P chia gói Heroine làm hai gói, 01 gói P cầm, còn 01 gói đưa cho C cầm, sau đó cả hai cùng đi về nhà, khi đi đến bản Căn Câu, xã Sin Suối Hồ, huyện P thì bị Tổ công tác Công an xã Sin Suối Hồ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.
Ngày 01/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện P đã tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật gửi đi giám định và niêm phong lại vật chứng.
Tại Kết luận giám định tư pháp theo vụ việc số: 45/KL-GĐVV, ngày 01/5/2023 kết luận: 01 gói chất bột màu trắng dạng cục thu giữ của Sùng A P có khối lượng là 0,05 gam (Không phẩy không năm gam); 01 gói chất bột màu trắng dạng cục thu giữ của Sùng A C có khổi lượng là 0,01 gam (Không phẩy không một gam). Tổng khối lượng chất bột màu trắng dạng cục cả 02 gói trên là 0,06 gam (Không phẩy không sáu gam).
Tại bản kết luận giám định số: 513/KL-KTHS, ngày 04/5/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh C kết luận: 02 (Hai) Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1, M2) gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sữa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. (Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).
Bản Kết luận giám định số: 586/KL-KTHS, ngày 23/5/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh C. Kết luận: 01 (Một) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng có mã số hiệu: LA17746924;01 (Một) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đồng có mã số hiệu: NB21992206; 02 (Hai) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng có mã số hiệu: QB15181862 và MF20087747gửi giám định là tiền thật. (Hoàn lại mẫu vật gửi giám định).
Tại bản Cáo trạng số: 64/CT-VKSPT, ngày 25 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P,tỉnh C đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng nêu trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, đề nghị áp dụng áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 BLHS; điểm b, c khoản 1 điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) phong bì màu trắng dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng còn lại vụ: Sùng A P - SN: 1978 và Sùng A C - SN:
1978, cùng trú tại: Bản Sân Bay, xã Sin Suối Hồ, huyện P, tỉnh C, hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày: 01/5/2023”. Một phong bì công văn do UBND xã Sin Suối Hồ phát hành mặt trước phong bì có ghi dòng chữ: "01 bật lửa thu của Sùng A C và 01 găng tay màu đen thu của Sùng A P, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt quả tang ngày 01/5/2023".Trả lại cho Sùng A T 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen - xanh, BKS:
25B1: xxxxx. Tịch thu sung ngân sách nhà nước Số tiền 90.000 đồng Về án phí: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.
Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện P, Điều tra viên. Cơ quan Viện kiểm sát huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt những người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Hội đồng xét xử xét thấy hồ sơ đã có đầy đủ lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và lời khai không mâu thuẫn với bị cáo, nên việc vắng mặt của những người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết nội dung vụ án. Căn cứ vào Điều 292, 293; Điểm d khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với tang vật vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, bị cáo thừa nhận đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai.
Về Lời khai của bị cáo:Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo khai nhận rằng, khi khai nhận trước Cơ quan điều tra, bị cáo không hề bị bức cung, nhục hình; các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, bị cáo được nghe đọc lại và tự nguyện ký nhận và bị cáo thừa nhận hành vi bán trái phép 01 (Một) gói Heroine cho Sùng A P có khối lượng 0,06 gam với giá 96.000 đồng (Chín mươi sáu nghìn đồng). Hội đồng xét xử thấy rằng: Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra là tự nguyện, khách quan; biên bản, tài liệu điều tra được thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Xét quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và ý kiến của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng:Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P tham gia phiên tòa đã đưa ra các căn cứ chứng minh về hành vi phạm tội của bị cáo căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ kết quả mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu vật gửi đi giám định. Tại bản kết luận giám định số 513/KL-KTHS, ngày 04/5/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh C kết luận: 02 (Hai) Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1, M2) gửi giám định là ma túy, loại Heroine.Các lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bởi vì những quan điểm này phù hợp với những tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án cùng lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đã cho thấy: Vào ngày 01/5/2023, tại khu vực đường thuộc bản Căn Câu, xã Sin Suối Hồ, huyện P, tỉnh C. Lò Văn T đã bán trái phép 01 gói Heroine với giá 96.000 đồng cho Sùng A P. Do đó Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lò Văn T đã phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251BLHS.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Nhân thân: Bị cáo Lò Văn T có nhân thân xấu. Tại quyết định số 28/QĐ- TA, ngày 21/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ về việc ap dụng biện phap đưa vao cơ sở giao dục bắt buộc đối với Lò Văn T thời hạn 20 thang. Đến ngày 30/01/2019 Lò Văn T chấp hành xong Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251Bộ luật hình sựbị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo nghề nghiệp làm ruộng, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, thu nhập không ổn định.Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu, tiêu hủy:
01 (Một) phong bì thư của Công an huyện P màu trắng. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng còn lại vụ: Sùng A P và Sùng A C, hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên trong phong bì là 03 vỏ phong bì là các bì niêm phong cũ đã mở, 02 mảnh nilon màu hồng cũ; 01 (Một) phong bì Công văn do UBND xã Sin Suối Hồ phát hành. Mặt trước phong bì có ghi dòng chữ: 01 bật lửa thu của Sùng A C và 01 găng tay màu đen thu của Sùng A P, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên trong phong bì là 01 bật lửa màu đỏ và 01 găng tay màu đen, đây là công cụ dùng để thực hiện hành vi phạm tội, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen-xanh, BKS: 25B1: xxxxx, số khung: RLHJAGG51GY 022154; số máy: JASGE 0484088. Xe đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy bên trong. Dung tích xilanh 110 cc. Xét thấy đây là tài sản thuộc sở hữu của anh Sùng A T do anh Sùng A C mượn của anh Tà và không nói cho anh Tà biết dùng chiếc xe máy để đi mua ma túy, nên anh Tà không biết anh C thực hiện hành vi phạm tội, nên cần trả lại xe máy cho anh Sùng A T.
Số tiền 90.000 đồng (Chín mươi nghìn đồng) do bị cáo phạm tội mà có, nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
[8] Những vấn đề liên quan:
Đối với người nam giới đã mua hộ Heroine cho Mào Văn T vào ngày 30/4/2023 tại khu vực bản Thèn Sin 1, xã Thèn Sin. Do nhân thân, lai lịch của người này không rõ ràng nên không đủ căn cứ để xác minh, làm rõ và xử lý.
Nguồn gốc số ma túy T bán cho P là của Lò Văn T và Mào Văn T, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Tuy nhiên vào ngày 01/5/2023, Lò Văn T một mình bán 01 gói Heroine cho Sùng A P, Tiến không biết, khi bán được Heroine T đưa cho Tiến số tiền 96.000 đồng, T không nói cho Tiến biết đó là tiền do bán Heroine mà có, vì vậy, Mào Văn T không đồng phạm với Lò Văn T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Hành vi tàng trữ trái phép 0,06 gam Heroine của Mào Văn T và Sùng A C, Sùng A P. Quá trình điều tra xác định Tiến, P và C tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích nào khác, và chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng Heroine không đủ định lượng để xử lý hình sự. Vì vậy, Công an huyện P đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Mào Văn T và Sùng A C, Sùng A P.
Hành vi Lò Văn T và Mào Văn T cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy tại lán của Tiến. Quá trình điều tra xác định khi thi công đường do có mối quan hệ thông gia, Lò Văn T không có nơi ở nên Tiến cho T ở, trông coi lán của gia đình mình tại bản Thèn Sin, xã Thèn Sin. T và Tiến cùng trông coi, quản lý địa điểm trên, vì vậy, Mào Văn T không phạm tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với các hành vi nêu trên trong vụ án này Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.
[9] Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí hình sự sơ thẩm vì là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2Điều 51; Điều 38; điểm a, bkhoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 01/5/2023.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
3.Về vật chứng của vụ án: Tịch thu, tiêu hủy: 01(Một) phong bì thư của Công an huyện P màu trắng. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng còn lại vụ: Sùng A P và Sùng A C, hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên trong phong bì là 03 vỏ phong bì là các bì niêm phong cũ đã mở, 02 mảnh nilon màu hồng cũ; 01 (Một) phong bì Công văn do UBND xã Sin Suối Hồ phát hành. Mặt trước phong bì có ghi dòng chữ: 01 bật lửa thu của Sùng A C và 01 găng tay màu đen thu của Sùng A P, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên trong phong bì là 01 bật lửa màu đỏ và 01 găng tay màu đen.
Trả lại cho anh Sùng A T:01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen-xanh, BKS: 25B1: xxxxx, số khung: RLHJAGG51GY 022154; số máy: JASGE 0484088. Xe đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy bên trong. Dung tích xilanh 110 cc.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước: Số tiền 90.000 đồng (Chín mươi nghìn đồng).
4/ Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 99/2023/HS-ST
Số hiệu: | 99/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về