Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 970/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 970/2023/HS-PT NGÀY 18/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 664/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023, đối với các bị cáo: Võ Tấn C, Nguyễn Thành B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Bị cáo Trần Ngọc V phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Các bị cáo Ngô Văn Q, Nguyễn Thị V1, Nguyễn Thanh Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Chè Lâm Bảo Vy P phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị V1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh N.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1552/2023/QĐPT-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị V1 (Tên gọi khác: L), sinh năm 1996, tại tỉnh B.

Nơi thường trú: Khu phố G, Thị trấn P, huyện T, tỉnh B; Nơi cư trú: Khu phố P, Thị trấn p, huyện T, tỉnh B; Nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị Ánh T; Có chồng là Võ H (kết hôn năm 2023) và 04 con (lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh ngày 30/3/2023); Tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

Bị cáo không có kháng cáo:

1. Võ Tấn C (tên gọi khác: X), sinh năm 1986, tại tỉnh N.

Nơi cư trú: Khu phố F, phường T, thành phố P-T, tỉnh N; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn N (đã chết) và bà Phạm Thị Thu H1; Có vợ là Phạm Thị Diễm D (đã ly hôn) và 01 người con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 27/11/2021, chuyển tạm giam ngày 03/12/2021.

Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân thị xã Phan Rang-T xử phạt 09 tháng tù về tội: “Chống người thi hành công vụ”, tại Bản án số 42/2005/HS-ST ngày 27/9/2005, đã chấp hành xong ngày 26/9/2006.

2. Nguyễn Thành B (tên gọi khác: Bo Q1), sinh năm 1993, tại tỉnh N.

Nơi cư trú: Khu phố F, phường T, thành phố P-T, tỉnh N; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Thành T1 (đã chết) và bà Tê Thị N1; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 31/5/2007, bị Chủ tịch UBND thành phố P-T quyết định đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 05/6/2009. Ngày 26/10/2010, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-T xử phạt 26 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 59/2010/HS-ST, đã chấp hành xong hình phạt ngày 10/5/2012. Ngày 27/12/2013, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-T xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 131/2013/HS-ST, đã chấp hành xong hình phạt ngày 27/02/2017. Ngày 16/8/2022, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-T xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 110/2022/HS-ST.

3. Trần Ngọc V, sinh năm 1990, tại tỉnh N.

Nơi cư trú: Khu phố B, phường T, thành phố P-T, tỉnh N; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Ngọc P1 và bà Nguyễn Thị Thu S; Có vợ là Võ Thị Kim T2 (đã ly hôn năm 2019) và 01 con; Tiền sự, tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 6/8/2008, bị Công an phường Đ, thành phố P-T xử phạt 60.000 đồng về hành vi gây mất trật tự khu dân cư. Ngày 27/7/2011, bị Công an phường Đ, thành phố P-T xử phạt 750.000 đồng về hành vi đánh người gây thương tích nhẹ. Ngày 07/7/2014, bị Công an phường Đ, thành phố P-T xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”. Ngày 29/9/2016, bị Công an phường Đ, thành phố P-T xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 07/3/2019, bị Công an phường T, thành phố P-T xử phạt 300.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự ở khu dân cư”. Ngày 18/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc tại Quyết định số 03/2019/QĐ-TA.

4. Ngô Văn Q (tên gọi khác: Ba T3), sinh ngày 01/10/2003, tại tỉnh N.

Nơi cư trú: Khu phố G, phường K, thành phố P-T, tỉnh N; Nghề nghiệp: Thợ điện lạnh; Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Ngô Văn Đ1 và bà Bùi Thị Minh H2; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự, tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 02/4/2021, bị Công an thành phố P-T xử phạt 1.125.000 đồng về hành vi “Tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 24/11/2021, UBND phường K, thành phố P-T áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong ngày 24/2/2022. Ngày 15/4/2022, bị Công an phường V, thành phố P-T xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong ngày 11/5/2022. Ngày 13/5/2022, bị Công an phường M, thành phố P-T xử phạt 400.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự công cộng”. Ngày 13/5/2022, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc, thời hạn 24 tháng tại cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh N.

5. Chè Lâm Bảo Vy P, sinh ngày 03/02/2002, tại tỉnh B.

Nơi cư trú: Thôn A, xã P, huyện T, tỉnh B; Tạm trú: Khu phố D, phường Đ, thành phố P-T, tỉnh N; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Chè Viên K và bà Trần Thị Đ2; Bị cáo chưa có chồng, có 01 con, sinh năm 2022; Tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo tại ngoại.

6. Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1999, tại tỉnh B.

Nơi thường trú: Khu phố S, Thị trấn P, huyện T, tỉnh B; Nơi ở hiện nay: Khu phố S, thị trấn P, huyện T, tỉnh B; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Đức H3 và bà Nguyễn Thị N2; Có vợ là Bùi Thị Minh H4 và 01 con; Tiền sự, tiền án: Không; Bị tạm giam ngày 29/8/2022.

Nhân thân: Ngày 21/9/2021, bị Công an xã H, huyện T, tỉnh B xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Các bị cáo khác trong vụ án không có kháng cáo, cũng không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 11 giờ 00 phút ngày 27/11/2021 tại căn nhà số A đường L, khu phố C, phường K, thành phố P-T, tỉnh N do Võ Tấn C thuê để ở, Công an tỉnh N bắt quả tang Võ Tấn C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần sau bên phải C đang mặc 01 gói nylon dạng miệng khép dính chứa tinh thể màu trắng; Gần vị trí C đang ngồi có 01 hộp nhựa màu trắng, bên trong có 04 gói giấy bạc chứa chất rắn màu trắng, 01 hộp kim loại màu xanh (hộp kẹo Double mint) bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng; 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa trên nắp có đục 02 lỗ, 01 ống hút nước, 01 bình ga mini có gắn đầu khò.

Thu giữ tại phòng ngủ của C: Trên sàn của phòng ngủ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; Tại khe rãnh nhỏ ngay góc phòng ngủ, bên dưới miếng gỗ lát sàn có kích thước (20 x10) cm có chứa 01 gói nylon lớn dạng miệng khép dính viền màu đỏ bên trong có chứa 41 gói nylon bên trong có tinh thể màu trắng; 01 hộp nhựa màu xanh (hộp kẹo Xylitol) bên trong chứa 06 gói nylon bên trong có tinh thể màu trắng, 01 gói nylon chứa 30 viên nén hình chữ nhật màu xanh, 01 gói nylon chứa 18 viên nén hình chữ nhật màu xanh và 03 viên nén màu nâu hình đầu lâu; 01 hộp giấy hình chữ nhật màu đỏ chứa 06 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, 01 gói nylon chứa chất rắn màu trắng dạng cục, 03 viên nén màu xanh hình vuông, 02 viên nén màu nâu; Bên ngoài cửa sổ phòng ngủ của C có 01 hộp nhựa màu đỏ (hộp kẹo Bigbabol) bên trong có 28 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng.

Ngoài ra, còn thu giữ một số gói nylon chưa sử dụng; 01 cân tiểu ly màu xám; số tiền 3.550.000 đồng; 01 thẻ ATM ngân hàng V3 tên Võ Tấn C, trong tài khoản có 12.776.881 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh không gắn sim và tạm giữ 02 điện thoại di động hiệu Realme; 02 xe máy và các đồ vật khác dùng vào việc sử dụng chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 200/KLGĐ-PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng K1 Công an tỉnh N kết luận: Số ma túy thu giữ tại nhà số A đường L, phường K, thành phố P-T, gồm: 76,8092 gam ma túy, loại Methaphetamine; 5,4834 gam ma túy, loại Heroin; 24,5777 gam ma túy, loại MDMA; 11,8145 gam ma túy, loại Ketamine.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định: Trong khoảng thời gian từ đầu tháng 9 năm 2021 đến ngày 27/11/2021, ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Võ Tấn C còn thực hiện các hành vi mua bán trái phép chất ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, cụ thể như sau:

1. Hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:

Võ Tấn C là người nghiện ma túy từ năm 2015, loại ma túy C sử dụng là Heroin, ma túy đá (Methamphetamine) và thuốc lắc (MDMA). Ngày 27/4/2020, C được gia đình đưa đi cai nghiện ma túy tự nguyện tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh N. Ngày 01/02/2021, C về địa phương sinh sống.

Trong thời gian từ đầu tháng 02/2021 đến ngày 27/11/2021, Võ Tấn C đã cư trú ở nhiều địa điểm khác nhau như: Nhà mẹ ruột (bà Phạm Thị Thu H1) tại khu phố F, phường T, thành phố P - T, tỉnh N và thuê nhà trọ, sống chung với Nguyễn Thị Bích H5 (không có đăng ký kết hôn) tại hẻm S đường N, phường T; Tại khu vực gần cây xăng H11 thuộc khu phố H (B), thị trấn P, huyện N, tỉnh N; Tại khu vực gần nhà nghỉ B3 thuộc phường T; Tại số C đường N, phường T (gần nhà nghỉ B4). Từ ngày 16/11/2021 đến ngày 27/11/2021, C thuê nguyên căn nhà tại địa chỉ số A đường L, khu phố C, phường K, thành phố P - T, tỉnh N.

Tại khu vực thuê trọ, Võ Tấn C thường xuyên lôi kéo, tụ tập nhóm người nghiện ma túy để Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Loại ma túy đá) cho nhiều người gồm: Nguyễn Thành B, Trần Ngọc V, Chè L, Dương Ngọc Như Ý, cùng sống chung ở nhà trọ của Võ Tấn C. Ngoài ra, còn một số bạn bè ngoài xã hội của C, B và V đến chơi và cùng nhau sử dụng ma túy gồm Nguyễn Khánh H6, Bùi Duy Ngọc T4, Phạm Văn S1, Nguyễn Thị Mỹ D1...

Ma túy và dụng cụ để sử dụng ma túy do Võ Tấn C cung cấp và tổ chức sử dụng tại địa điểm nơi mà C thuê trọ. Việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của Võ Tấn C diễn ra thường xuyên, liên tục, trong thời gian dài, mỗi ngày tổ chức sử dụng ma túy từ 01 đến 05 lần. Mục đích để cho những người này làm việc cho C.

Quá trình Võ Tấn C tổ chức cho nhiều người, nhiều lần sử dụng trái phép chất ma túy, có sự giúp sức của Nguyễn Thành B và Trần Ngọc V: Mỗi lần sử dụng, C thường nói Bo hoặc V chuẩn bị dụng cụ (lấy dụng cụ đã có sẵn ra) để C bỏ ma túy vào cho cả nhóm sử dụng. Quá trình sử dụng ma túy, khi nỏ thủy tinh (bầu chứa ma túy đá) dính bẩn, C yêu cầu B hoặc V vệ sinh (dùng tăm bông lau sạch bầu chứa ma túy) để C bỏ ma túy vào sử dụng.

2. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy:

Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 9/2021 đến ngày 27/11/2021 (khi bị bắt quả tang), Võ Tấn C nhiều lần vào T, B mua ma túy của Nguyễn Thị V1 về chia nhỏ ra bán lại cho các con nghiện. Việc mua bán trái phép chất ma túy của C có sự giúp sức của Nguyễn T5, Ngô Văn Q, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng giữa tháng 9/2021, Võ Tấn C đi cùng Ngô Văn Q vào Thị trấn P, huyện T, C liên lạc với Nguyễn Thị V1 để hỏi mua 100 số ma túy đá với giá 7.400.000 đồng. Sau đó, V1 gọi điện cho Nguyễn Thanh Đ đi đón C và Q về tại phòng trọ số 4 của dãy nhà trọ thuộc thôn L, xã H, huyện T. Tại đây, V1 yêu cầu C chuyển tiền mua ma túy trước rồi giao cho C 100 số ma túy đá. Sự việc diễn ra có sự chứng kiến của Đ và Q.

Lần thứ hai: Khoảng 01 giờ sáng một ngày cuối tháng 9/2021, Ngô Văn Q đến gặp C hỏi mua một tép ma túy giá 300.000 đồng nhưng C nói hết ma túy và rủ Q vào T để mua ma túy của V1. Q đồng ý đi, sau đó C rủ thêm Chè Lâm Bảo Vy p cùng đi thì được p đồng ý (lúc này P chưa biết đi mua ma túy). V1 nói Đ đi đón C, Q và P về nhà ba mẹ của V1 tại số A Bà T, thị trấn P, huyện T. Tại đây, C hỏi mua của V1 500 số ma túy đá, do V1 chỉ còn 200 số nên C mua 200 số. Lúc này, V1 nói Đ đi lấy cân tiểu ly để V1 cân ma túy cho C. Sau khi nhận ma túy, C đưa cho V1 800.000 đồng tiền mặt còn lại 14.000.000 đồng ngày hôm sau C nhờ P chuyển qua ví Momo cho V1.

Sau khi mua ma túy, Võ Tấn C đã bán lại cho các đối tượng là các con nghiện để sử dụng, gồm:

Bán cho Võ Thị Thuận N3 04 lần, cụ thể: Lần 01 và 02 (Vào giữa tháng 9/2021), N3 thế chấp xe máy nhãn hiệu Sirius màu trắng xanh, biển số 85F1- 154.86 cho C với giá 3.000.000 đồng. Trong đó, N3 lấy 2.000.000 đồng tiền mặt còn 1.000.000 đồng N3 mua 02 lần ma túy đá, mỗi lần giá 500.000 đồng. Cả 02 lần mua N3 đều liên lạc trực tiếp với C và Ngô Văn Q (B) là người đã giao ma túy cho N3 tại khu vực gần ao cá Bác H7 thuộc khu phố H, thị trấn P, huyện N, tỉnh N. Lần 03 (Khoảng đầu tháng 10/2021), N3 gặp C tại nhà trọ gần nhà nghỉ B4 mua 500.000 đồng ma túy đá nhưng thiếu nợ. C đồng ý và trực tiếp bán 01 gói ma túy đá cho N3. Lần 04 (Cách 02 ngày sau), N3 nhờ Q (B) thế chấp cho C một điện thoại di động hiệu Realme với giá 800.000 đồng, trong đó: 500.000 đồng N3 trả cho C tiền nợ mua ma túy trước đó 02 ngày và 300.000 đồng để mua một tép ma túy đá.

Bán cho Đỗ Lê Thúy P2 04 lần, cụ thể: Lần 01 (Khoảng giữa tháng 10/2021), P2 nhờ Nguyễn Văn T6 (L) gọi cho C hỏi mua giúp P2 một tép ma túy đá giá 300.000 đồng, C đồng ý, P2 đến nhà trọ của C gần nhà nghỉ B4 đưa tiền trực tiếp cho C, Nguyễn Thành B là người giao ma túy cho P2. Lần 02 (Tối hôm sau), P2 nhờ Võ Thị Thuận N3 (N) gọi cho C hỏi mua giúp P2 một tép ma túy đá giá 200.000 đồng, tại nhà trọ của c, P2 đưa tiền cho C. Lần 03 (Khoảng cuối tháng 10/2021), P2 mang xe máy biến số 85AA-020.64 của bà Nguyễn Thị T7 (bà ngoại nuôi của P2) rồi nhờ Trần Xuân S2 (S3) mang đến nhà C thế cho C 1.000.000 đồng để mua ma túy đá, C là người giao ma túy đá cho P2 còn Nguyễn Thành B là người đem xe của P2 cất vào nhà. Lần 04 (Ngày hôm sau), P2 tiếp tục nhờ Trần Xuân S2 hỏi C để hỏi mua một tép ma túy đá giá 500.000 đồng cho P2 nợ tính vào tiền thế chấp chiếc xe. C đồng ý, Nguyễn Thành B là người đã giao ma túy cho P2.

Bán cho Nguyễn Văn T6 (L) 04 lần, cụ thể: Lần 01 (Khoảng cuối tháng 9/2021), T6 đến nhà trọ C ở khu vực cây xăng H (B) mua của C một tép ma túy đá giá 120.000 đồng, C trực tiếp nhận tiền và giao ma túy cho T6. Lần 02 (Khoảng đầu tháng 10/2021), T6 đến nhà trọ C gần nhà nghỉ B4 mua một tép ma túy đá giá 200.000 đồng, C cho lại 20.000 đồng, C trực tiếp nhận tiền và giao ma túy cho T6. Lần 03 (Khoảng 07 ngày sau), tại nhà trọ của C, T6 mua một tép ma túy đá với giá 200.000 đồng, C trực tiếp nhận tiền và giao ma túy cho T6. Lần 04 (Ngày 19/10/2021), sau khi cướp được điện thoại di động của Võ Thị Thanh T8 (Em gái của Võ Thị Thuận N3), T6 đem đến nhà trọ C nhờ Ngô Văn Q (B) thế chấp cho C để mua 300.000 đồng ma túy đá. Q là người giao ma túy cho T6. Chiếc điện thoại đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố p - T thu giữ khi bắt Nguyễn Văn T6 trong vụ án khác.

Bán cho Nguyễn Thị Mỹ D1 (S2) 07 lần, cụ thể: Trong khoảng thời gian từ giữa 10/2021 đến tháng 11/2021, 05 lần mua ma túy đá mỗi lần 300.000 đồng; Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 10/2021 đến cuối tháng 11/2021, 02 lần mua ma túy loại MDMA mỗi lần 02 viên với giá 700.000 đồng.

Bán cho Võ Thanh P3 (Phong Nhóc) 04 lần, cụ thể: Lần 1 (Khoảng đầu tháng 10/2021), tại nhà trọ của H5, gần quán C4, trên đường N, thuộc phường T, thành phố P-T, P3 đã mua của C một tép ma túy đá giá 300.000 đồng, C trực tiếp nhận tiền và giao ma túy cho P3. Cũng trong tháng 10/2021 (03 lần tiếp theo) tại khu vực cầu ngăn mặn ở phường T, mỗi lần P3 mua 01 tép ma túy đá giá 300.000 đồng, cả 03 lần này Nguyễn Thành B là người giao ma túy cho P3 và nhận tiền.

Bán cho Lê Thị Bích N4 01 lần (Khoảng đầu tháng 11/2021), 02 viên thuốc lắc (MDMA) và 02 chấm khay (Ketamine) với giá 2.700.000 đồng tại khu vực trước L đường N.

Bán cho Phạm Văn S1 (S) 02 lần, Nguyễn Thành B là người giao ma túy cho S1.

Bán cho Đào Văn T9 (Trung Nhóc) 02 lần, cụ thể: Lần 0 (Ngày 20/11/2021), tại đầu hẻm A, L, khu phố C, phường K, T9 mua của C một tép ma túy đá giá 200.000 đồng, B là người giao ma túy cho T9 và nhận tiền. Lần 02 (Khoảng 21 giờ ngày 26/11/2021), tại nhà trọ của C số 14/4/2 đường L, T9 đã mua 1 góc 8 ma túy đá giá 800.000 đồng, C giao ma túy và nhận tiền.

Bán cho Ngô Văn Q (B): Khoảng cuối tháng 9/2021, lúc này C đang ở trọ tại khu vực gần cây xăng H11 (B, P), Q đến thế chấp điện thoại di động hiệu Iphone với giá 2.000.000 đồng, trong đó 1.000.000 đồng mua ma túy đá và lấy 1.000.000 đồng tiền mặt. C trực tiếp giao ma túy cho Q.

Bán cho Trần Ngọc V (Khoảng đầu tháng 10/2021), trước khi về ở chung phòng trọ với C, V đã mua ma túy đá của C 06 lần, với số tiền là 1.200.000 đồng tại nhà trọ của C gần nhà nghỉ B4, phường T, thành phố P - T, tỉnh N.

Bán cho Nguyễn Ngọc L1 02 lần, với số tiền là 1.700.000 đồng.

Bán cho Nguyễn Văn V2 (tên thường gọi là Hoàng Cá C1) 03 lần, với số tiền là 700.000 đồng.

Ngoài ra, C còn bán ma túy cho các đối tượng: Nguyễn Huỳnh A1, Trần Lê H8, Nguyễn Đăng H9, Nguyễn Thành D2.

Quá trình điều tra, mặc dù Võ Tấn C chỉ thừa nhận mua ma túy đá của Nguyễn Thị V1 02 lần với tổng số tiền: 22.200.000 đồng và bán ma túy cho các đối tượng Nguyễn Thị Mỹ D1 (Sương) 1.000.000 đồng và Đào Văn T9 (Trung Nhóc) 800.000 đồng; thừa nhận có bán ma túy với số lượng ít. Không thừa nhận số ma túy mà Cơ quan điều tra thu giữ dưới tấm sàn gỗ ở góc phòng ngủ và bên ngoài cửa sổ phòng ngủ là của C nhưng với những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã chứng minh Võ Tấn C đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, với nhiều loại ma túy khác nhau, với tổng số tiền thu lợi là 17.200.000 đồng.

Quá trình bị cáo Võ Tấn C thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, có sự giúp sức của Nguyễn Thành B, Ngô Văn Q.

3. Hành vi của các đối tượng khác:

Nguyễn Thị Bích H5: H5 sống chung nhu vợ chồng với C, biết C mua bán ma túy vào khoảng thời gian từ đầu tháng 10/2021 và có nhiều lần chuyển trả tiền mua ma túy cho Nguyễn Thị V1 giúp C, thời gian mà H5 chuyển tiền vào các số tài khoản mang tên Nguyễn Thị V1 và Nguyễn Thanh Đ là vào tháng 10 và tháng 11/2021 nhung Nguyễn Thị V1, Nguyễn Thanh Đ và Võ Tấn C cùng khai nhận C mua ma túy của V1 02 lần vào khoảng tháng 9/2021. Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị cáo ngày 18/8/2022 nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố Bị cáo ngày 7/11/2022.

Chè L: Là đối tượng nghiện ma túy và ở tại nhà của Võ Tấn C được C cho ăn và cung cấp chất ma túy cho sử dụng, P một lần cùng với C vào T để mua ma túy của Nguyễn Thị V1. Tuy nhiên, trước khi đi P không biết mục đích của C vào T là để mua ma túy. Ngoài ra, P nhiều lần giúp C chuyển tiền vào số tài khoản mang tên Nguyễn Thanh Đ nhưng P không biết mục đích của việc chuyển tiền trên là để C trả tiền mua ma túy cho V1. Quá trình sống chung nhà với C, P nhìn thấy và biết được C bán ma túy cho nhiều người nhưng vì sợ trả thù và ảnh hưởng đến bản thân nên P đã không trình báo, tố giác tội phạm đến cơ quan chức năng về hành vi phạm tội của C.

4. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị V1 và Nguyễn Thanh Đ, cụ thể:

Nguyễn Thị V1 đứng tên mở, quản lý, sử dụng 02 tài khoản ngân hàng gồm 01 tài khoản mở tại Ngân hàng Á (Ngân hàng A2) và 01 tài khoản ví điện tử M. Tất cả đều dùng số điện thoại 0797034379 do Nguyễn Văn N5 (là em trai ruột của V1) đứng tên, để liên kết với các tài khoản trong việc chuyển và nhận tiền. V1 còn nhờ Nguyễn Thanh Đ đứng tên mở 03 tài khoản ngân hàng gồm 01 tài khoản mở tại Ngân hàng A2, 01 tài khoản mở tại Ngân hàng S5 và 01 tài khoản ví điện tử M. Tất cả các tài khoản mà Đ đứng tên đều do V1 quản lý, sử dụng và đều dùng số điện thoại 0395074379 của Nguyễn Thị V1 đứng tên chính chủ để liên kết với các tài khoản trong việc chuyển và nhận tiền.

Quá trình điều tra, xác định Nguyễn Thị V1 đã 02 lần bán ma túy cho Võ Tấn C vào khoảng tháng 9/2021 và 06 lần bán ma túy cho Nguyễn Tấn H10.

Nguyễn Thanh Đ: Điền là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy, làm thuê cho gia đình của V1 và được V1 cho ăn, ở, cung cấp ma túy để sử dụng. Quá trình V1 bán trái phép chất ma túy cho C và H10 có sự giúp sức của Nguyễn Thanh Đ. Đ đã giúp V1 mở 02 tài khoản tại Ngân hàng Á và Ngân hàng S5; một tài khoản Ví Momo. Sau khi mở tài khoản, Đ giao lại cho V1 quản lý và sử dụng vào việc chuyển tiền mua bán ma túy. Điền biết rõ V1 là đối tượng mua bán trái phép chất ma túy và đã nhiều lần giúp V1 bán ma túy. Trong đó, có 02 lần đón C và đồng bọn đến nhà trọ của Đ và ba mẹ của V1 để V1 bán ma túy cho C; 03 lần giúp V1 bán ma túy cho Nguyễn Tấn H10.

Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị V1 và Nguyễn Thanh Đ cho Nguyễn Tấn H10 hiện do cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố p đang thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh N, quyết định:

Tuyên bố các bị cáo phạm tội như sau:

1. Bị cáo Võ Tấn C phạm 02 tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm a, b, C khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Tấn C 19 (Mười chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 07 (B1) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 2 tội, buộc bị cáo Võ Tấn C phải chấp hành hình phạt chung là 26 (Hai mươi sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngay 27/11/2021.

2. Bị cáo Nguyễn Thành B phạm 02 tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm a, b khoản 2 Điều 255, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 54; Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành B 05 (Năm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 04 (B2) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 2 tội, buộc bị cáo Nguyễn Thành B phải chấp hành hình phạt chung là 09 (C2) năm tù.

Áp dụng điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù tại Bản án số 110/2022/HS-ST ngày 16/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - T, tỉnh N. Buộc bị cáo Nguyễn Thành B phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 11 (Mười một) năm 06 (S4) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày 4/5/2022.

3. Bị cáo Trần Ngọc V phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Ngọc V 04 (B2) năm tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày 8/10/2022.

4. Các bị cáo Ngô Văn Q, Nguyễn Thị V1, Nguyễn Thanh Đ phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị V1 08 (T10) năm tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ 05 (Năm) năm tù. Hạn tù tính từ ngày 29/8/2022.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Văn Q 06 (S4) năm tù. Hạn tù tính từ ngày 30/8/2022.

5. Bị cáo Chè Lâm Bảo Vy P phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 390, điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chè Lâm Bảo Vy P 12 (Mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/7/2023). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố P - T, tỉnh Ninh Lhuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 09/8/2023, bị cáo Nguyễn Thị V1 kháng cáo đề nghị tuyên không phạm tội.

Tại phiên tòa, bị cáo V1 giữ nguyên kháng cáo và trình bày:

Xác nhận lời khai tại cơ quan điều tra về 2 lần mua bán ma túy tại nhà trọ của bị cáo thuộc thôn L, xã H và nhà số A Bà T, thị trấn P, huyện T vào tháng 9/2021 với Võ Tấn C là đúng. Tuy nhiên, lời khai trên là không đúng do cán bộ điều tra ép cung. Bị cáo không khiếu nại việc ép cung của cán bộ điều tra là do thiếu hiểu biết. Bị cáo không gặp Võ Tấn C để thỏa thuận mua bán ma túy.

Bị cáo và Nguyễn Thanh Đ quen biết và chơi với nhau không có mâu thuẫn. Bị cáo có nhờ Đ mở tài khoản để chơi game, hoàn toàn không có việc liên lạc để giao nhận tiền giữa Đ và bị cáo. Việc bị cáo Đ khai cho bị cáo bán ma túy cho Võ Tấn C là không đúng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H có ý kiến:

Tại phiên tòa, mặc dù bị cáo V1 vẫn kháng cáo kêu oan. Tuy nhiên, căn cứ hồ sơ vụ án có căn cứ xác định: Bị cáo V1 đã 2 lần bán ma túy cho Võ Tấn C vào tháng 9/2021. Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo V1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 8 năm tù là đúng quy định. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo V1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Nguyễn Thị V1 kháng cáo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo V1 tiếp tục kháng cáo kêu oan và cho rằng không thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, căn cứ hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Võ Tấn C đã 02 lần mua ma túy của Nguyễn Thị V1, cụ thể, lần thứ nhất, Võ Tấn C mua 100 số ma túy đá vào giữa tháng 9/2021 và lần thứ hai vào cuối tháng 9/2021, V1 bán cho C 200 số ma túy đá. V1 đã nhận đủ tiền do C chuyển theo thỏa thuận.

[3] Kết quả điều tra xác định: Nguyễn Thị V1 quản lý và sử dụng các tài khoản mở tại Ngân hàng A2 và tài khoản ví điện tử M, đều dùng số điện thoại 0797034379 đứng tên Nguyễn Văn N5 (là em ruột của V1); Tài khoản tại Ngân hàng A2, Ngân hàng S5 và tài khoản ví điện tử M, đều dùng số điện thoại 0395074379 của Nguyễn Thị V1. V1 sử dụng các tài khoản trên để liên kết với các tài khoản trong việc chuyển và nhận tiền, số tiền do Võ Tấn C hoặc C nhờ C3 Lâm Bảo Vy P thanh toán tiền mua ma túy cũng được chuyển vào tài khoản trên của V1.

[4] Từ những chứng cứ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo V1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Việc bị cáo cho rằng không gặp Võ Tấn C, không thực hiện việc mua bán với C là không có căn cứ.

[5] Hành vi của bị cáo V1 là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo V1 có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc mua bán ma túy là vi phạm pháp luật và sẽ phải chịu hình phạt rất nghiêm khắc nhưng vì muốn thu lợi nhuận cao, muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo đã bất chấp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo V1 8 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[6] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo V1 khai báo quanh co, không thừa nhận hành vi phạm tội. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Tuy nhiên, do bị cáo V1 mới sinh con vào tháng 3/2023, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp.

[7] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo V1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị V1.

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh N.

3. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị V1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, 4.1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị V1 08 (T10) năm tù.

4.2. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

5. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị V1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

6. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 970/2023/HS-PT

Số hiệu:970/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về