Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 965/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 965/2023/HS-PT NGÀY 18/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 852/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Đức C; Do có có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 448/2023/HS-ST ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1551/2023/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2023, đối với:

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Đức C, sinh năm 1971 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số D T, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức T (chết) và bà Nguyễn Thị T1 (chết); Có vợ tên Phạm Nguyễn Hoàng A (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 1992; Tiền án: Không; tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 13/ST ngày 03/6/1993 của Tòa án quân sự Quân khu 7 xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Bản án số 1990/HSPT ngày 12/11/1998 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giữ nguyên Bản án số 1159/HSST ngày 13/6/1998 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Bản án số 633/HSST ngày 29/5/2001 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm tù về tội: “Cưỡng đoạt tài sản của công dân”; Bản án số 1727/HSST ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bản án số 305/2011/HSPT ngày 19/9/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2022, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đinh Yến N - Đoàn luật sư Thành phố H, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18 giờ 20 phút ngày 01/6/2022, trước nhà số C T, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận T, bắt quả tang Nguyễn Đức c đang cất giấu trong cốp xe gắn máy biển số 59D2-567.xx một gói ma túy để chuẩn bị giao bán cho khách, khối lượng là 348,34 gam loại Heroin.

Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà số D T, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh không phát hiện đồ vật, tài liệu liên quan đến ma túy.

Quá trình điều tra, C khai nhận thông qua bạn bè quen biết thì C quen đối tượng tên T2 (không rõ lai lịch) có nhu cầu mua ma túy. Ngày 01/6/2022 T2 sử dụng số điện thoại 07044833xx hỏi đặt mua của C 01 bánh Heroin giá 200.000.000 đồng và hẹn giao ma túy trước nhà số C T. Khoảng 17 giờ cùng ngày C sử dụng điện thoại số 09041173xx gọi cho thanh niên tên N1 (không rõ lai lịch) mua 01 bánh Heroin với giá 185.000.000 đồng, C điều khiển xe mô tô mang biển số 59D2-567.xx đến gặp N1 tại đường N, Quận A để lấy ma túy như thỏa thuận, sau khi mua xong C cất giấu bánh ma túy bên trong cốp xe mang đi bán lại cho T2, chưa kịp giao cho T2 thì bị Công an quận T phát hiện bắt quả tang như đã nêu.

Ngoài ra, C còn khai nhận cách ngày bị bắt khoảng 02 tuần, C đã mua 01 bánh Heroin của N1 với giá 185.000.000 đồng và bán lại cho T2 với giá 200.000.000 đồng, số tiền hưởng lợi C đã tiêu xài hết.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 448/2023/HS-ST ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 6 năm 2022.

Buộc bị cáo nộp phạt 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) sung vào Ngân sách nhà nước Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 25 tháng 9 năm 2023, bị cáo Nguyễn Đức C có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo: Án sơ thẩm phạt bị cáo tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là quá nặng đối với bị cáo. Nên, bị cáo kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thm hôm nay:

- Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét số ma túy bị cáo để trong cốp xe gắn máy biển số 59D2-567.xx , khối lượng là 348,34 gam loại Heroin bị bắt ngày 01/6/2022 là của người tên T2 nhờ bị cáo giữ giùm chứ không phải của bị cáo mua bán, nhưng do bị cáo không biết tên T2 hiện ở đâu nên bị cáo phải chịu trách nhiệm; bị cáo tuổi cao sức yếu, bị cáo nhận thấy ăn năn hối cải nên mong Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo. Bị cáo không cung cấp chứng cứ mới.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Khi xem xét quyết định về tội danh và hình phạt Tòa sơ thẩm đã xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, giữ nguyên án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư thống nhất với tội danh án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tuổi đã cao nên mong Hội đồng xét xử khoan hồng, chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt để bị cáo có cơ hội hòa nhập cộng đồng.

- Lời nói sau cùng bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu cỏ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức C còn trong hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay mặc dù bị cáo C cho rằng số ma túy bị bắt quả tang ngày 01/6/2022 là của người tên T2 gửi bị cáo giữ giùm nhưng bị cáo không biết T2 đang ở đâu nên bị cáo phải chịu trách nhiệm, vì thế bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, với vật chứng thu giữ được và kết luận giám định, có cơ sở xác định: Vào ngày 01/6/2022, bị cáo C liên hệ thỏa thuận mua 01 bánh heroin với giá 185.000.000 đồng của đối tượng tên N1 tại đường N, Quận A. Sau đó trên đường đi bán lại số ma túy này với giá 200.000.000 đồng cho đối tượng tên T2, tại trước nhà số C T, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị cáo bị bắt quả tang cùng tang vật là ma túy. Tại kết luận giám định số 3148/KL-KHHS ngày 07/6/2022 của Phòng kỹ thuận hình sự, Công an Thành phố H kết lượng số ma túy thu giữ của bị cáo C là 348,34 gram Heroin.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân, tiền đề của các tội phạm khác và tệ nạn xã hội; gây tác hại xấu đến sức khỏe con người, làm mất khả năng lao động, học tập và tự chủ cuộc sống, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị xét xử với nhiều tội danh khác nhau, đặc biệt bị cáo đã có 02 lần bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, cần xử bị cáo mức án thật nghiêm khắc để răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cụ thể: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới ngoài tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho bị cáo. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử mức án tù chung thân là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát; không chấp nhận đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo của Luật sư; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[5] Quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức C; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 448/2023/HS-ST ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C tù chung thân; thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Đức C để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Đức C phải nộp 200.000 đồng.

4. Quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 965/2023/HS-PT

Số hiệu:965/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về