Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 95/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 95/2024/HS-ST NGÀY 03/04/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03/4/2024 tại Hội trường A - Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 60/2024/TLST-HS, ngày 28 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2024/QĐXXST- HS, ngày 22 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Minh C (M), sinh ngày 06/10/2005, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi ĐKHKTT: T4, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

Chỗ ở trước khi bị bắt: Phòng 03 ở địa chỉ 63B đường G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Hồng Anh L, sinh năm: 1X; Con bà: Trần Thị L, sinh năm: 1974; Hiện đều trú tại: T4, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B từ ngày 01/11/2023 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Văn L, sinh ngày 09/4/2003, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi ĐKHKTT: T2, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

Chỗ ở trước khi bị bắt: Phòng 03 ở địa chỉ 63B đường G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn D, sinh năm: 1976 (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1976. Hiện trú tại: T2, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B từ ngày 01/11/2023 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Khắc C, sinh năm: 1955; Địa chỉ: 63B đường G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.(vắng mặt).

- Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Sinh T, sinh năm: 1953; Địa chỉ: 110 đường V, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.(vắng mặt).

2. Ông Hoàng Võ N, sinh năm: 1993; Địa chỉ: 09 đường V, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Minh C, Nguyễn Văn L nhận thức rõ chất thảo mộc khô màu nâu dạng sợi được tẩm ướp ma túy có tên thường gọi là ma túy Tobacco (thuộc nhóm ma túy Cần sa tổng hợp).

Do không có nghề nghiệp ổn định nên C và L cùng nhau bàn bạc mua ma túy Tobacco về bán kiếm lời, thống nhất C là người bỏ tiền mua ma túy còn L sẽ cùng C cất giấu và mỗi lần đi bán ma túy C trả công cho L 50.000 đồng. Ngày 29 tháng 10 năm 2023, C sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng gắn sim số 0588.431.X đăng nhập tài khoản facebook "Phan Minh C" liên lạc với người sử dụng tài khoản facebook "Tobacco Đ" (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 2.300.000 đồng ma túy Tobacco thì người này đồng ý bán và nói C chuyển tiền vào tài khoản 2311234522X ngân hàng thương mại cổ phần Q tên VO DUY L. C sử dụng SmartBanking đăng nhập tài khoản 0567647X ngân hàng thương mại cổ phần Q được cài đặt trên điện thoại di động Iphone màu vàng chuyển trước số tiền 1.000.000 đồng đến số tài khoản trên rồi gửi số điện thoại và địa chỉ cho người này để gửi ma túy. Sáng ngày 01/11/2023, có nhân viên giao hàng (C không nhớ đơn vị và nhân thân lai lịch người giao hàng) đến giao cho C một gói hàng ở khu vực đường G, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. C kiểm tra đúng ma túy Tobaco đưa đủ số tiền 1.300.000 đồng cho nhân viên giao hàng rồi mang về phòng trọ số 03 ở địa chỉ 63B đường G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cùng L phân thành 83 gói nylon cất trong phòng trọ, ai hỏi mua sẽ bán. Khoảng 12 giờ 22 phút cùng ngày, có nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng tài khoản facebook “Nguyên V” liên lạc đến tài khoản facebook của C hỏi mua một gói ma túy Tobacco, C đồng ý bán với giá 150.000 đồng và hẹn gặp tại khu vực đường N, phường T, thành phố B. L mượn xe máy của người bạn tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch và đặc điểm xe) chở C đến điểm hẹn bán một gói ma túy Tobacco thu lợi bất chính số tiền 150.000 đồng. Sau khi bán được ma túy, L chở C về lại phòng trọ rồi trả xe cho Đ. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi C và L đang ở phòng trọ thì bị đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố B phối hợp với Công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang, C tự giác lấy từ trong túi áo khoác đang mặc ra giao nộp 82 gói nylon bên trong mỗi gói đều chứa chất thảo mộc khô màu nâu dạng sợi. C và L khai nhận là ma túy Tobacco cất với mục đích bán. Lực lượng Công an đã niêm phong số ma túy theo quy định của pháp luật.

Tiến hành khám xét phòng trọ số 03 ở địa chỉ: 63B đường G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk không thu giữ được đồ vật liên quan đến ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 2514/KL-KTHS ngày 13/12/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đ kết luận.

- Mẫu thảo mộc khô màu nâu dạng sợi bên trong 82 gói nylon được niêm phong trong túi giấy màu xanh bên ngoài có chữ “HỒ SƠ" được dán kín gửi giám định đều có tìm thấy chất ma túy MDMB-4en-PINACA và MDMB-FUBINACA (MBMD- 4en-PINACA và MDMB-FUBINACA đều thuộc nhóm ma túy Cần sa tổng hợp), tổng khối lượng mẫu thảo mộc khô là 152,89 gam. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 145,68 gam mẫu thảo mộc khô màu nâu dạng sợi và toàn bộ bao gói.

- Mẫu thảo mộc khô chứa Cần sa tổng hợp thường được tạo ra bằng cách lấy tinh thể chất Cần sa tổng hợp, hòa vào dung môi, sau đó phun tẩm lên các mẫu thảo mộc khô (thảo mộc khô ban đầu thông thường không chứa chất ma túy).

- Hiện nay, Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đ không có mẫu chuẩn định lượng chất ma túy MDMB-4en-PINACA và MDMB-FUBINACA, nên không thể xác định được hàm lượng cũng như khối lượng chất ma túy MDMB-4en- PINACA và MDMB-FUBINACA trong mẫu vật gửi giám định.

Tại bản cáo trạng số: 78/CT-VKS ngày 27/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự như nội dung bản Cáo trạng số: 78/CT-VKS ngày 27/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Minh C mức án từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L mức án từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù.

*/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về phần xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 145,68 gam mẫu thảo mộc khô màu nâu dạng sợi bên trong 82 gói nylon được niêm phong trong túi giấy màu xanh bên ngoài có chữ “HỒ SƠ” còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 2514/KL-KTHS ngày 13/12/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đ là vật chứng của vụ án.

Đề nghị tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, số Imei 2: 357304091621560 gắn sim số 0588.431.X của bị cáo Phan Minh C là công cụ sử dụng để phạm tội.

Đề nghị tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 150.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ bán ma túy.

Đề nghị trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xanh, số Imei 2: 356713110820139 gắn sim số 0962.353.X cho bị cáo Nguyễn Văn L nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Các bị cáo không tham gia tranh luận gì khác chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, các bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận do không có nghề nghiệp ổn định nên C và L cùng nhau bàn bạc mua ma túy Tobacco về bán kiếm lời, thống nhất C là người bỏ tiền mua ma túy còn L sẽ cùng C cất giấu và mỗi lần đi bán ma túy C trả công cho L 50.000 đồng nên vào ngày 29/10/2023, C sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng gắn sim số 0588.431.X đăng nhập tài khoản facebook "Phan Minh C" liên lạc với người sử dụng tài khoản facebook "Tobacco ĐN N" hỏi mua 2.300.000 đồng ma túy Tobacco. Khoảng 12 giờ 22 phút cùng ngày, có nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng tài khoản facebook “N” liên lạc đến tài khoản facebook của C hỏi mua một gói ma túy Tobacco, C đồng ý bán với giá 150.000 đồng và hẹn gặp tại khu vực đường N, phường T, thành phố B. L mượn xe máy của người bạn tên Đ chở C đến điểm hẹn bán gói ma túy Tobacco thu lợi bất chính số tiền 150.000 đồng. Sau khi bán được ma túy, L chở C về lại phòng trọ. Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 01/11/2023, trước cửa phòng trọ số 03 ở địa chỉ 63B đường G, phường T, thành phố B. Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố B phối hợp với Công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang Phan Minh C, Nguyễn Văn L có hành vi cất giấu 152,89 gam mẫu thảo mộc khô màu nâu dạng sợi chứa ma túy Cần sa tổng hợp bên trong 82 gói nylon với mục đích bán kiếm lời.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Như vậy có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L đã có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự trị an trong xã hội. Các bị cáo nhận thức được loại Cần sa tổng hợp là chất ma túy gây nghiện nặng làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội... Hiện nay, loại tội phạm về ma túy đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên, tệ nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma túy thật nghiêm khắc. Do ý thức coi thường pháp luật nên các bị cáo đã có hành vi mua bán 152,89 gam mẫu thảo mộc khô màu nâu dạng sợi chứa ma túy Cần sa tổng hợp bên trong 82 gói nylon với mục đích bán kiếm lời. Vì vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét về nhân thân của các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, khi phạm tội các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo khi lượng hình.

Xét tính chất mức độ hành vi của các bị cáo đã gây ra cùng nhân thân của các bị cáo, xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội về sau.

Đối với nguồn ma túy, bị cáo C khai nhận mua qua tài khoản facebook "Tobacco Đ” và chuyển tiền mua ma túy qua số tài khoản 23112345X22 ngân hàng thương mại cổ phần Q (M) mang tên VO DUY L. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có Công văn gửi ngân hàng thương mại cổ phần Q cung cấp thông tin chủ số tài khoản và sao kê chi tiết các giao dịch từ ngày 25/10/2023 cho đến ngày 02/11/2023 nhưng đến nay vẫn chưa nhận được công văn phúc đáp nên tách hành vi của người này ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với đối tượng nam giới (không rõ nhân thân lai lịch) sử dụng tài khoản facebook “N” liên lạc mua ma túy với bị cáo C tại khu vực đường N, phường T, thành phố B. Quá trình điều tra vẫn chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên tách hành vi của đối tượng này ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với nhân viên giao hàng (C không nhớ đơn vị và nhân thân lai lịch) giao hàng cho C và nam thanh niên tên Đ (L không rõ nhân thân lai lịch) cho L mượn xe. Quá trình điều tra vẫn chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên tách hành vi của những người này ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với phòng trọ số 03 ở địa chỉ 63B đường G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là nơi bị cáo C, L cất giấu ma túy. Quá trình điều tra xác minh căn nhà trên do ông Nguyễn Khắc Ch, sinh năm 1955, trú ở t5, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đứng tên chủ sở hữu. Ông Ch không biết việc bị cáo C, L cất giấu ma túy trong phòng trọ nên không đề cập xử lý là phù hợp nên cần chấp nhận.

*/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về phần xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 145,68 gam mẫu thảo mộc khô dạng sợi và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 2514/KL-KTHS, ngày 13/12/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đ là vật chứng của vụ án.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, kèm sim số 0588.431X, số Imei 2: 357304091621560 của bị cáo Phan Minh C là công cụ sử dụng để phạm tội.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 150.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ bán ma túy.

Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh, kèm sim số 0962.353.X, số Imei 2: 356713110820139 cho bị cáo Nguyễn Văn L nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

[4] Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Minh C 02 (hai) năm 9 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/11/2023.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L 02 (hai) năm 9 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/11/2023.

*/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về phần xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 145,68 gam mẫu thảo mộc khô dạng sợi và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 2514/KL-KTHS, ngày 13/12/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đ là vật chứng của vụ án.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, kèm sim số 0588.431X, số Imei 2: 357304091621560 của bị cáo Phan Minh C là công cụ sử dụng để phạm tội.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng) là tiền thu lợi bất chính từ bán ma túy.

Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xanh, kèm sim số 0962.353.X, số Imei 2: 356713110820139 cho bị cáo Nguyễn Văn L nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

(Về vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/4/2024, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Minh C và Nguyễn Văn L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 95/2024/HS-ST

Số hiệu:95/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:03/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về