Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 90/2022/HS-PT NGÀY 09/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2022/TLPT- HS ngày 19/01/2022. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 283/2021/HS-ST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1994 tại Nghệ An; nơi ĐKTT: 30A NTĐ, Khối 14, phường QT, thành phố V, tỉnh Nghệ An; nơi ở: Phòng thuê nhà số 405/39/28A TN (Đường 16 mới), Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Ch và bà Nguyễn Thị T; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 14/01/2021, (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Ông Vũ Thanh H là Luật sư của Văn phòng luật sư Vũ Thanh H, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Ngoài ra trong vụ án còn bị cáo Giáp Thị Phương Hồng Y, do bị cáo Giáp Thị Phương Hồng Y không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc C nên Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 11 giờ 00 phút ngày 16/12/2020, tại trước nhà số 41A đường số 16, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh. Công an quận GV bắt quả tang Giáp Thị Phương Hồng Y có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm bán lại cho người khác. Vật chứng thu giữ: 03 gói nylon chứa 06 viên nén màu vàng, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “qp” (Bút lục 55-56), kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,6023 gam, loại MDMA.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Y tại Phòng 104, nhà số 405/39/28A, Đường 16, Phường 11, quận GV, thu giữ dưới nền nhà trong góc tường bên phải: 01 chiếc hộp giấy màu trắng bạc bên trong có 02 gói nylon chứa 28 viên nén (01 gói chứa 15 viên và 01 gói chứa 13 viên) màu vàng, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “qp”, có tổng khối lượng 15,8602 gam, loại MDMA và 04 gói nylon chứa tinh thể không màu, có tổng khối lượng 4,4462 gam, loại Methamphetamine; 01 chiếc hộp giấy màu trắng bạc; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa và 01 xe gắn máy biển số 72F1-677.05 (Bút lục 66, 67).

Quá trình khám xét nơi ở của Yến có mặt Nguyễn Ngọc C (sinh năm: 1994; HKTT tại số 30A đường NTĐ, khối 14, phường QT, thành phố V, tỉnh Nghệ An). Ban đầu C và Y khai không liên quan đến số ma túy thu giữ của Y, C khai không có chỗ ở, kết quả kiểm tra C dương tính với ma túy nên Công an Phường 11, quận GV đưa Công đi cai nghiện tại Cơ sở NX.

Khi biết C bị đưa đi cai nghiện, cùng ngày 16/12/2020, bà Lê Thu H là chủ phòng trọ tại địa chỉ 405/39/28A đường số 16, Phường 11, quận GV gọi điện thông báo cho ông Nguyễn Đình Đ (sinh năm: 1952; HKTT: tại thôn AQ, xã LN, huyện GB, tỉnh Bắc Ninh - là người được chị H thuê để quản lý phòng trọ) việc Nguyễn Ngọc C là người thuê Phòng 207 đã bị Công an Phường 11 đưa đi cai nghiện bắt buộc và yêu cầu ông Đ đến Phòng 207 dọn dẹp cho người khác thuê ở. Đến ngày 18/12/2021, ông Đ cùng vợ là bà Nguyễn Thị X đến Phòng 207 dọn dẹp thì cửa phòng bị khóa bên ngoài. Do không có chìa khóa nên ông Đ đã phá khóa Phòng 207 rồi cùng bà X vào phòng thì phát hiện trong phòng có nhiều gói nylon chứa các viên nén màu vàng nhạt nghi vấn là ma túy nên ông Đ và bà X giữ nguyên hiện trường rồi đến Công an Phường 11, quận GV trình báo. Sau khi tiếp nhận đơn trình báo, Công an Phường 11 đã phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận GV tiến hành kiểm tra, thu giữ, niêm phong vật chứng gồm:

+ Dưới nền nhà bên cạnh nệm ngủ trong phòng, thu giữ: 01 hộp giấy màu vàng đựng 12 gói nylon chứa 45 viên nén màu vàng nhạt, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “qp”, khối lượng 25,2766 gam, loại MDMA; 01 bình gas hiệu Blustar;

01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; 01 hộp giấy màu trắng có in chữ Iphone đựng 02 nỏ thủy tinh và 01 hộp giấy đựng 30 vỏ nylon nhỏ.

+ Tại góc tường bên phải dưới nền nhà phía trong, sau cánh cửa ra vào phòng thu giữ: 01 túi vải màu xanh hiệu Adidas bên trong đựng 03 gói nylon chứa tổng số 1794 viên nén màu vàng nhạt, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “qp”, có khối lượng 1003,91 gam, loại MDMA.

Tất cả số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 40/KLGĐ-H; 41/KLGĐ-H cùng ngày 24/12/2020; số 108/KLGĐ-H ngày 25/12/2020 và công văn số 548/PC09-Đ4 ngày 27/5/2021 về việc bổ sung hết quả giám định các chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL: 51, 61, 71, 166).

Kết quả xác minh Nguyễn Ngọc C chính là người thuê Phòng 207, nhà số 405/39/28A, đường số 16, Phường 11, quận GV từ ngày 07/12/2020 cho đến ngày 16/12/2020.

Quá trình điều tra, Nguyễn Ngọc C khai: Thông qua người đàn ông tên B (không rõ lai lịch), C quen biết với Giáp Thị Phương Hồng Y và thường xuyên đến nơi ở của Y thuê tại Phòng 104, nhà số 405/39/28A, đường số 16, Phường 11, quận GV chơi. Khoảng cuối tháng 9 năm 2020 khi C đang ở trọ tại khu vực đường Lê Văn Ch, phường LT, quận TĐ, thông qua mạng xã hội Facebook, C có quen biết với một người bán ma túy thuốc lắc qua mạng và được báo giá của ma túy thuốc lắc nếu mua từ 1500 đến 1700 viên nén ma túy thuốc lắc thì có giá khoảng 200.000.000 đồng, được vận chuyển từ nước Đức về Việt Nam dưới hình thức chuyển phát bưu phẩm và người bán sẽ cho C tài khoản ngân hàng nước ngoài để C chuyển khoản. Sau đó, C đã liên hệ với người bán ma túy qua mạng xã hội để đặt mua ma túy thuốc lắc với giá 206.000.000 đồng (bao gồm tiền vận chuyển về Việt Nam). C đã chuyển đủ số tiền 206.000.000 đồng với tổng cộng 03 lần chuyển khoản vào các tài khoản ngân hàng nước ngoài khác nhau (không rõ số tài khoản) do người bán ma túy nhắn với C qua hình thức dịch vụ chuyển tiền Western Union tại các tiệm vàng ở Quận TĐ và Quận 9 (không rõ địa chỉ và thời gian chuyển), cụ thể: Lần thứ 1, C chuyển số tiền 50.000.000 đồng tại một tiệm vàng ở quận TĐ. Lần thứ 2, C chuyển số tiền 70.000.000 đồng tại một tiệm vàng ở Quận 9 và Lần thứ 3, C chuyển số tiền 86.000.000 đồng tại một tiệm vàng ở quận TĐ. Nhận đủ số tiền, người bán ma túy thông báo cho C biết khoảng từ 10 đến 15 ngày thì ma túy (được ngụy trang thành hàng mỹ phẩm để tránh Hải quan phát hiện) về Việt Nam; C cho người bán ma túy thông tin tên người nhận là “Võ Thúy Ph; địa chỉ 72/24/14 đường Lê Văn Ch, khu phố 1, phường LT, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh” và sử dụng số điện thoại 0868890535 của C để nhận ma túy. Đến khoảng 15 giờ ngày 28 hoặc 29 tháng 11 năm 2020, C đang ở một mình trong Phòng 104 của Y thuê thì có một người đàn ông gọi điện thoại vào số 0868890535 của C nói C có bưu phẩm từ nước Đức gửi về và yêu cầu C đến địa chỉ số 02 đường TS, quận TB để nhận bưu phẩm. C biết là ma túy đã về Việt Nam nên thuê một người chạy xe ôm công nghệ (Grab) đến địa chỉ 02 đường TS, quận TB để nhận thùng hàng về giao lại cho C. Khi nhận được điện thoại của tài xế Grab báo đã đưa thùng hàng về đợi trước cửa, C đi bộ ra nhận một thùng xốp bên ngoài được dán băng keo và có in chữ “QUATAR AIRWAYS; ARIWAYBILL NO: 157-6666 4010; AIRPORT OF DESTINATION: BER; TOTAL NUMBER OFFICERS: 74; H31 Võ Thúy Ph; địa chỉ 72/24/14 đường Lê Văn Ch, khu phố 1, phường LT, quận TĐ, TP. Hồ Chí Minh, TL: 0868890535”. C mang thùng xốp về Phòng 104 của Y thuê mở ra xem thì thấy bên trong có 03 chai dầu gội đầu bằng nhựa, mỗi chai có thể tích 1.5 lít; đồng thời, C sờ nắn 03 chai dầu gội đầu này và biết bên trong chai nhựa có chứa ma túy thuốc lắc bên trong. Lúc này, Y về lại Phòng 104 nhìn thấy thùng xốp và hỏi C thì C chỉ nói với Y thùng hàng này là quà từ nước ngoài gửi về cho C. Sau đó, C mang thùng xốp về phòng trọ của C đang thuê tại đường Lê Văn Ch, khu phố 1, phường LT, quận TĐ để kiểm tra. C lấy 03 gói nylon chứa ma túy ra khỏi 03 chai nhựa dầu gội đầu rồi kiểm tra thấy ma túy thuốc lắc để trong 03 bịch nylon chứa trong 03 chai dầu gội đầu là các viên nén màu vàng, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “gp” nhưng C không kiểm đếm về số lượng. Sau đó, Công lấy 10 viên ma túy thuốc lắc bỏ vào 01 gói nylon rồi mang đến Phòng 104 và cho Yến sử dụng thử.

Ngày 07/12/2020, C chuyển đến thuê ở tại Phòng 207 cùng địa chỉ với Y thuê và làm hợp đồng thuê phòng từ ngày 10/01/2021 đến 30/09/2021 với giá 3.000.000 đồng/1 tháng nhưng C được chủ nhà đồng ý cho ở từ ngày 07/12/2020 và không thu tiền phòng. C không nói cho ông Đ biết C là bạn của Y đang thuê Phòng 104 và cũng không nói cho Y biết về việc C thuê Phòng 207 và đến ở từ ngày 07/12/2020. Khi C đến ở tại Phòng 207, C mang theo thùng xốp chứa ma túy đến đây để cất giấu. Tại Phòng 207, C lấy 03 viên ma túy thuốc lắc ra dùng thử. Sau khi dùng thử ma túy, C lấy các viên ma túy thuốc lắc bỏ vào các gói nylon nhỏ, mỗi gói C bỏ vào từ 02 đến 15 viên ma túy thuốc lắc rồi cất giấu các gói nylon chứa ma túy thuốc lắc vào trong một hộp giấy màu vàng và để hộp giấy dưới nền nhà ở góc tường bên trái cạnh nệm nằm ngủ trong phòng cùng với bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Số ma túy thuốc lắc còn lại trong 03 bịch nylon, C cất giấu vào một túi vải màu xanh có in chữ Adidas bên ngoài rồi để ở dưới nền nhà góc tường bên phải, sau cánh cửa ra vào phòng. Đến khoảng 23 giờ ngày 15/12/2020, C cầm 01 túi nylon bên trong chứa 20 viên nén ma túy thuốc lắc xuống Phòng 104 của Y thuê. Tại Phòng 104, khi Y đang nấu ăn và không chú ý thì C bỏ 20 viên nén ma túy thuốc lắc vào trong hộp giấy màu trắng bạc cùng với số ma túy mà Y cất giấu trước đó và không nói cho Y biết về số ma túy này. Sau khi ăn uống xong, C về Phòng 207, đến khoảng 06 giờ ngày 16/12/2020, C nhắn tin qua tài khoản mạng xã hội Facebook tên "Tên lửa trắng" của Y với nội dung: "Sắp tới em có việc về quê, em có để một ít "đồ", nếu có khách lấy nhờ chị bán giùm với giá 180.000 đồng một viên" nhưng Y chưa trả lời. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, Y điện thoại nói C đến Phòng 104 của Y để nhờ công việc. Khoảng 10 giờ cùng ngày, C đến Phòng 104 thì không thấy Y, do cửa phòng không khóa nên C vào phòng ngồi chờ Y về. Đến khi Công an quận GV đưa Y về để tiến hành khám xét chỗ ở thì thấy C đang ở trong phòng Y có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy nên đã mời C về trụ sở để làm việc. Quá trình làm việc tại Công an Phường 11, quận GV, do C và Y khai C không liên quan đến số ma túy của Y bị công an thu giữ, không liên quan đến việc mua bán ma túy của Y, kết quả xét nghiệm C dương tính với ma túy nên Công an quận GV đã bàn giao C cho Công an Phường 11, quận GV lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, đến ngày 18/12/2020, sau khi nhận được đơn trình báo của ông Nguyễn Đình Đ về số ma túy được cất giấu tại Phòng 207 là phòng do Nguyễn Ngọc C thuê nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận GV đã tiến hành điều tra, xác minh làm rõ như đã nêu trên.

Giáp Thị Phương Hồng Y khai: Y có quen biết với Nguyễn Ngọc C thông qua một người đàn ông tên B (không rõ lai lịch). Khoảng ngày 28 và 29 tháng 11 năm 2020, C có đến chỗ ở của Y thuê (Phòng 104) tại địa chỉ 405/39/28A đường số 16, Phường 11, quận GV chơi và cho Y 10 viên ma túy thuốc lắc màu vàng nhạt, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “qp” để Y sử dụng nhưng Y đã cho người khác.

Khoảng 20 giờ ngày 02/12/2020, Y đang ở Phòng 104 thì B dùng điện thoại số 0834411112 gọi cho Y ra đầu hẻm, B đưa cho Y một gói nylon chứa 18 viên ma túy thuốc lắc màu vàng, hình lục giác, một mặt có khắc ký hiệu “qp” để Y bán lại cho người khác kiếm lời, Yến đồng ý. Nhận ma túy xong, Y về Phòng 104 cất giấu gói nylon chứa ma túy thuốc lắc vào trong một hộp giấy màu trắng bạc để ở dưới nền nhà ở góc tường bên phải trong phòng. Ngoài ra, ngày 14/12/2020, Y mua 04 gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá) thông qua mạng xã hội Facebook của một người đàn ông (không rõ lai lịch) có biệt danh “Doremon” với giá 2.400.000 đồng, cất giấu trong hộp giấy màu trắng bạc nêu trên. Khoảng 23 giờ ngày 15/12/2020, Công đến phòng thuê của Y chơi và ăn uống với Y. Đến khoảng 10 giờ ngày 16/12/2020, Y đang ở Phòng 104 thì có một người đàn ông sử dụng mạng xã hội Facebook có biệt danh là "Nhi B1" gọi vào điện thoại di động của Y hỏi mua 10 viên thuốc lắc với số tiền 3.000.000 đồng, Y đồng ý và hẹn “Nhi B1” giao dịch tại khu vực trường ND thuộc quận GV. Thỏa thuận xong, Y mở hộp giấy màu trắng bạc ra thì phát hiện trong hộp giấy bạc có thêm 01 gói nylon bên trong chứa 20 viên nén cùng loại với ma túy của B cho Y vào ngày 02/12/2020, Y nghĩ là của C bỏ vào vì trước đó không có gói ma túy trên. Sau đó, Y lấy 10 viên thuốc lắc bỏ vào trong 03 gói nylon (02 gói chứa 04 viên và 01 gói chứa 02 viên) rồi cất vào túi áo khoác của Y đang mặc trên người để đem đi bán cho khách. Đồng thời, Y chia 28 viên ma túy (trong đó có 20 viên của C) thành 02 gói nylon (01 gói chứa 13 viên và 01 gói chứa 15 viên) cất lại vị trí cũ cùng với 04 gói nylon chứa ma túy đá. Khi Y đến trước nhà số 41A đường số 16 mới, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an kiểm tra phát hiện, thu giữ toàn bộ số ma túy.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 283/2021/HS-ST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Căn cứ điểm b khoản 4 khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Nguyễn Ngọc C);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc C tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/01/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo C 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm hình sự của bị cáo Giáp Thị Phương Hồng Y, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/12/2021, bị cáo Nguyễn Ngọc C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc C giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định. Về nội dung vụ án đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt. Quá trình điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, cho thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ ràng, được chứng minh trong hồ sơ vụ án. Xét kháng cáo giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, nhận thấy Bản án sơ thẩm đã tuyên bị cáo mức án tử hình là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo. Bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tất cả tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, khối lượng ma túy do bị cáo phạm tội trong vụ án này là rất lớn. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới so với những chứng cứ đã được xem xét tại cấp sơ thẩm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luật sư Vũ Thanh H trình bày: Về hành vi phạm tội và tội danh, luật sư không tranh luận. Về tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Luật sư xin bổ sung một số luận điểm như sau: bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, trình độ nhận thức hạn chế, bị cáo có hành vi mua nhưng chưa kịp bán cho ai, bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, hợp tác tích cực với Cơ quan điều tra. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ và chuyển loại hình phạt áp dụng đối với bị cáo để cho bị cáo một con đường sống, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì thêm ngoài phần bào chữa của Luật sư.

Bị cáo nói lời sau cùng: Thời gian bị tạm giam bị cáo luôn ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo một cơ hội để làm lại cuộc đời, được trở về phụng dưỡng cha già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã tuyên, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai cũng như bản tự khai của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Thông qua các mối quan hệ quen biết trên mạng xã hội, bị cáo C đã đặt mua ma túy (thuốc lắc) vận chuyển từ Đức về để bán cho người khác; bị cáo Y đã nhận ma túy (thuốc lắc) của đối tượng B (không rõ lai lịch) và đặt mua ma túy đá trên mạng xã hội về phân chia nhỏ ra để bán cho khách, thu lợi bất chính. Lúc 11 giờ 00 phút ngày 16/12/2020, tại trước nhà số 41A đường số 16, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo Y bị bắt quả tang đang mang 5,6023g ma túy thuốc lắc loại MDMA đi bán, đồng thời thu giữ tại nơi ở của Y: Phòng 104, nhà số 405/39/28A Đường 16, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng ma túy 15,8602g MDMA (trong đó có 20 viên ma túy khối lượng 11,3280g loại MDMA của bị cáo C gửi bị cáo Y bán) và 4,4462g loại Methamphetamine; thu giữ tại nơi ở của C vào ngày 18/12/2021: Phòng 207, nhà số 405/39/28A Đường 16, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh số lượng ma túy 1029,1866g loại MDMA.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Ngọc C về tội “Mua bán trái phép chất ma túytheo quy định tại điểm b khoản 4 khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, không sai.

[2.2] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc C thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và tình hình chung về tội phạm về ma túy phức tạp ở nước ta hiện nay. Về nhận thức, bị cáo biết rõ các chất ma túy được Nhà nước quản lý độc quyền nhưng do cần tiền tiêu xài và cần ma túy sử dụng nên bị cáo C đã thực hiện hành vi phạm tội với số lượng rất lớn ma túy ở thể rắn là 1040,5146g loại MDMA. Do đó, hành vi của bị cáo cần được xử lý thật nghiêm nhằm giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo Nguyễn Ngọc C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đồng thời đã cân nhắc đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như: bị cáo bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, bị cáo có thái độ ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên số lượng ma túy do bị cáo phạm tội có số lượng trên 100 gam là tình tiết định khung, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt tử hình là đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo phạm tội với cách thức tinh vi, dùng mạng xã hội để mở rộng kết nối với các đối tượng hoạt động ở nước ngoài thông qua dịch vụ chuyển phát, điều này góp phần làm tăng tính phức tạp về các loại tội phạm về ma túy trong nước cũng như khu vực. Khi Công an quận GV khám xét nơi ở của Giáp Thị Phương Hồng Y thì C có mặt ở đó nhưng C không thừa nhận số ma túy của C để ở chỗ của Y cũng như cung cấp lời khai gian dối ban đầu rằng C không có chỗ ở, nhưng sau đó do khám xét chính chỗ ở của C thì Cơ quan điều tra mới phát hiện ra được số ma túy mà C đã mua và chưa kịp sử dụng cũng như bán lại cho người khác. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án cao nhất của khung hình phạt là tử hình là có căn cứ, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, các tình tiết do Luật sư nêu ra đã được cấp sơ thẩm xem xét, đánh giá đầy đủ, khách quan.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận lời bào chữa của Luật sư, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị cáo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc C. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 283/2021/HS-ST ngày 15/12/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4 khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc C tử hình.

Phạt bổ sung: xử phạt bị cáo C 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Ngọc C có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.

2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3/ Án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-PT

Số hiệu:90/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về