Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 89/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 89/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 95/2022/TLST- HS ngày 28/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2022/QĐXXST- HS ngày 13/4/2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1960;

Nơi cư trú: Khu Đ, P. V, TP. B, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K (đã chết) và bà Chu Thị S (đã chết); có vợ là: Vũ Thị D, sinh năm 1960 và có 02 con, lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1988; tiền án: Có 01 tiền án là Bản án số 45/2017/HSST ngày 07/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 31/3/2020; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 25/2001/HSST ngày 19/01/2001 của Tòa án nhân dân thị xã B nay là Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 19/10/2002; Bản án số 71/2013/HSST ngày 17/4/2013 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, chấp hành xong ngày 27/12/2013; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh B; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 00 phút ngày 29/12/2021, tại ngã tư C, Khu 3, P. V, TP. B, tỉnh B, tổ công tác Công an P. V, TP. B bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán kiếm lợi nhuận.

Vật chứng thu giữ, gồm: Thu giữ tại túi áo khoác bên trái phía trước của T đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng, bên trong có 05 gói giấy bạc màu trắng có chứa chất bột màu trắng. Tổ công tác cho vào bì thư niêm phong có chữ ký của T và những người làm chứng.

Tại Kết luận giám định số: 96/KLGĐMT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: “ Chất bột màu trắng bên trong 05 gói giấy bạc màu trắng có khối lượng là 0,3353 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine”.

*. Tại cáo trạng số 38/CT-VKSTPBN ngày 28/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

*. Tại phiên toà, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

*. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Luận tội và đề nghị như sau:

- Tuyên bố bị cáo T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo T từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 29/12/2021.

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 96/KLGĐMT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;

*. Sau khi nghe bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa, mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đúng như bản luận tội đã nêu.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nhận thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng đã được thu hồi, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 29/12/2021, tại ngã tư C, Khu 3, P. V, TP. B, tỉnh B, tổ công tác Công an P. V, TP. B bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ trái phép 0,3353 gam Heroine nhằm mục đích để bán kiếm lợi nhuận. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện để nhằm mục đích hưởng lợi, chứng tỏ bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố

[2]. Về nhân thân, tính chất, mức độ của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét thấy, bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp có 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, xét tính chất và mức độ tội phạm của bị cáo gây ra là nguy hại lớn cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây bức xúc, phẫn nộ và hoang mang trong quần chúng nhân dân; mặt khác, bị cáo còn có nhân thân xấu. Do đó, cần phải có mức hình phạt thật nghiêm tương ứng, cho bị cáo cách ly xã hội một thời gian, để có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng, răn đe phòng ngừa chung, không tạo ra tiền lệ xấu, ngăn chặn sự gia tăng loại tội phạm nguy hiểm này và góp phần làm trong sạch, lành mạnh đời sống xã hội và niềm tin vào pháp luật của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ngoài ra, bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự thì còn có thể phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[4]. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét thấy vật chứng, là: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 96/KLGĐMT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo nhưng bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Công an thành phố B không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xem xét xử lý sau. Do đó, không đề cập xem xét.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

1.1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 29/12/2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 96/KLGĐMT-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;

Toàn bộ vật chứng nêu trên được mô tả theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 89/2022/HS-ST

Số hiệu:89/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về