Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 88/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NTỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 88/2021/HSST NGÀY 21/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/HSST-QĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo đối với bị cáo:

Phạm Tấn Ph (tên gọi khác: Ph Chíp), sinh năm 1994 tại tỉnh Đồng Nai. HKTT: ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp Tr, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không Trình độ học vấn: 09/12. Nghề nghiệp: Tài xế.

Con ông Phạm Văn D, sinh năm 1967 và bà Phan Thị Kim L, sinh năm 1968.

Bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình.

Bị cáo chưa có vợ và con.

Tiền án: Ngày 14/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 23/10/2015 nhưng chưa thi hành nghĩa vụ bồi thường số tiền 9.500.000 đồng theo Quyết định thi hành án số 89/QĐ-CCTHA ngày 13/01/20154 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N.

Tiền sự: Không có.

Nhân thân: Ngày 30/11/2016 bị Công an huyện N ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, đến ngày 20/12/2016 đã chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10 tháng 12 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Phúc V, sinh năm 1989; địa chỉ: ấp Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Khánh L, sinh năm 1958; địa chỉ: ấp Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai (Bị cáo có mặt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Người làm chứng vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 09 tháng 12 năm 2020, Phạm Tấn Ph có hành vi bán cho Nguyễn Phúc V 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng tại hẻm gần Bưu Điện thuộc xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Đến Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 10 tháng 12 năm 2020, Phạm Tấn Ph tiếp tục có hành vi bán cho Nguyễn Phúc V 02 gói ma túy với giá 1.500.000 đồng tại hẻm nhà V thuộc ấp Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật và tiến hành khám xét nơi ở của Phạm Tấn Ph tại ấp Tr, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai Vật chứng thu giữ: 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng thu giữ trên người của Phạm Tấn Ph; 06 gói nylon hàn kín hai đầu bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng thu giữ tại nhà Phạm Tấn Ph; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có sim số 0962679360; 01 chiếc kéo; 01 quẹt ga; 25 bịch nylon bên trong không chứa gì; 01 ống hút nhựa dài 10cm; 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh và số tiền 1.500.000 đồng của Nguyễn Phúc V.

Tại Bản kết luận giám định số 2835/KLGĐ-PC09 ngày 15/12/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định:

Mẫu tinh thể màu trắng được niêm Ph (ký hiệu M) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,7827 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu tinh thể màu trắng được niêm Ph (ký hiệu M1) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,5943 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 18 tháng 12 năm 2020, Cơ quan điều tra Công an huyện N đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Phạm Tấn Ph để điều tra.

Quá trình điều tra Phạm Tấn Ph khai nhận:

Phạm Tấn Ph là đối tượng nghiện ma túy, do muốn có tiền tiêu xài nên Ph nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho con nghiện. Ph sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0962679360 gọi điện thoại cho một người đàn ông tên Th (không rõ nhân thân) để mua 01 gói ma túy loại Methamphetamin với giá 1.200.000 đồng. Th đồng ý bán và hẹn Ph khoảng 13 giờ 00 phút ngày 09 tháng 12 năm 2020, Th đến nhà Ph thuộc ấp Tr, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai để giao ma túy cho Ph, Ph đưa cho Th số tiền 1.200.000 đồng. Nhận được ma túy, Ph chia gói ma túy thành 07 gói nhỏ nhằm mục đích bán lại cho các con nghiện để kiếm lời. Đến 14 giờ 00 phút cùng ngày, Nguyễn Phúc V, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai gọi điện thoại đến số 0962679360 của Ph hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, Ph đồng ý và hẹn V đến hẻm gần Bưu Điện thuộc xã Ph, huyện N bán ma túy cho V được 300.000 đồng.

Vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 10 tháng 12 năm 2020, V tiếp tục điện thoại cho Ph hỏi mua 02 gói ma túy với giá 1.500.000 đồng, Ph đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại nhà của V. Sau đó, Ph điện thoại cho Th hỏi mua 02 gói ma túy với giá 1.200.000 đồng, Th đồng ý bán và hẹn Ph đến khu vực C thuộc huyện L để giao dịch mua bán ma túy. Khi nhận được 02 gói ma túy từ Th, Ph đi xe ôm đến hẻm nhà V thuộc ấp Đ, xã Ph, huyện N để bán 02 gói ma túy cho V với giá 1.500.000 đồng nhưng chưa kịp bán thì bị Công an xã Ph kết hợp với Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an huyện N bắt quả tang cùng tang vật.

Tại cáo trạng số 59/CT-VKS-TB ngày 14 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố Phạm Tấn Ph về tội “Mua bán trái trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017)

Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: M = 1,7497gam và M1 = 1,5630 gam được niêm Ph số 2835/KLGĐ-PC09 ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim số 0962679360; 01 chiếc kéo; 01 quẹt ga; 25 bịch nylon bên trong không chứa gì; 01 ống hút nhựa dài 10cm; 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen của Phạm Tấn Ph và số tiền 1.500.000 đồng của Nguyễn Phúc V là phương tiện, tiền đã dùng vào việc phạm tội.

Tuyên buộc bị cáo Phạm Tấn Ph giao nộp số tiền 300.000 đồng là tiền Ph có được do bán ma túy cho Nguyễn Phúc V ngày 09 tháng 12 năm 2020.

Đối với đối tượng tên Th đã bán ma túy cho Phạm Tấn Ph, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Phúc V có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là quy định pháp luật.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung truy tố tại bản cáo trạng, phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị:

Căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phạm Tấn Ph từ 09 năm đến 10 năm tù.

- Bị cáo Phạm Tấn Ph không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng:

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra, không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước tòa, cho thấy bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:

Phạm Tấn Ph đã hai lần thực hiện hành vi mua bán 3,3127 gam Methamphetamine vào ngày 09 tháng 12 năm 2020 tại hẻm gần Bưu Điện thuộc xã Ph, huyện N và ngày 10 tháng 12 năm 2020 tại hẻm nhà V thuộc ấp Đ, xã Ph, huyện N nhằm mục đích để kiếm lời thì bị Công an xã Ph kết hợp với Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an huyện N bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Phạm Tấn Ph đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác nhưng vì xem thường pháp luật bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phạm Tấn Ph có nhân thân xấu và đã bị kết án về tội cố ý gây thương tích chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý, thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tấn Ph khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét trách nhiệm hình sự cho bị cáo và cũng để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[4] Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 3,3127 gam được niêm Ph số 2835/KLGĐ-PC09 ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim số 0962679360; 01 chiếc kéo; 01 quẹt ga; 25 bịch nylon bên trong không chứa gì; 01 ống hút nhựa dài 10cm; 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen của Phạm Tấn Ph và số tiền 1.500.000 đồng của Nguyễn Phúc V là phương tiện, tiền đã dùng vào việc phạm tội.

Buộc bị cáo Phạm Tấn Ph giao nộp số tiền 300.000 đồng là tiền do Ph phạm tội mà có.

Đối với đối tượng tên Th đã bán ma túy cho Phạm Tấn Ph, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

Đối với Nguyễn Phúc V có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định pháp luật.

định.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy [6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tấn Ph (tên gọi khác: Ph Chíp) phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Tấn Ph (tên gọi khác: Ph Chíp) 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 12 năm 2020.

2. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 3,3127 gam được niêm Ph số 2835/KLGĐ-PC09 ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim số 0962679360; 01 chiếc kéo; 01 quẹt ga; 25 bịch nylon bên trong không chứa gì; 01 ống hút nhựa dài 10cm; 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen của Phạm Tấn Ph và số tiền 1.500.000 đồng của Nguyễn Phúc V.

Buộc bị cáo Phạm Tấn Ph nộp sung ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 300.000 đồng.

Vật chứng nêu trên đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 4 năm 2021.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 88/2021/HSST

Số hiệu:88/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về