Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 85/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 85/2024/HS-ST NGÀY 14/08/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng, xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2024/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2024/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2024, đối với bị cáo:

NGUYỄN D – Sinh ngày 11/10/2002 - Tại Quảng Nam; Nơi đăng ký HKTT và sinh sống: 60/10 Mẹ Suốt, tổ 33, phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: thợ cắt tóc; Trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn C và bà Nguyễn Thị B; gia đình có 02 anh chị em bị cáo là con út; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ ngày 30/11/2023, hiện đang tạm giam tại Trại giam Hòa Sơn Công an thành phố Đà Nẵng– Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1969; Nơi cư trú: tổ 33, phường H, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

- Võ Thị Kim L, sinh năm 2000; Nơi cư trú: khối phố BÌnh An, thị trấn T Kỳ, huyện T Phước, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

- Bà Hà Thị Xuân H, sinh năm 1988; Nơi cư trú: xã Q, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

- Ông Mai Văn T, sinh năm 1993; Nơi cư trú: số 30 T, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

Ông Trần Sư K, sinh năm 1993; Nơi cư trú: thôn Vân Dương 1, xã H, huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 22 giờ 40 phút ngày 30/11/2023, tại trước số nhà 56 Loseby, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng, Phòng CSĐTTP về ma túy Công an TP.Đà Nẵng phát hiện Nguyễn D đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH 150i màu đen mang BKS 43H1-X có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi sau bên trái quần jean D đang mặc có 01 gói giấy trắng bên trong chứa 03 viên nén màu trắng và chất tinh thể rắn màu trắng. Tiếp tục kiểm tra trong cốp xe của D có nhiều gói ni lông chứa 32 viên nén màu trắng và tinh thể rắn màu trắng. D khai nhận đây là ma tuý Ketamine và thuốc lắc D cất giấu để đi bán trái phép cho khách. Lực lượng công an tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, tạm giữ D cùng tang vật.

* Tang vật tạm giữ:

- 01 gói giấy trắng bên trong chứa: 01 gói ny long trắng bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu A1) và 03 viên nén màu trắng (ký hiệu A2). Tất cả đựng trong bì niêm phong ký hiệu: A.

- 01 gói ny lông trắng bên trong chứa: 07 gói ny long trắng bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu B1) và 02 gói ny long trắng bên trong chứa tổng cộng 32 viên nén màu trắng (ký hiệu B2). Tất cả đựng trong bì niêm phong ký hiệu: B.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim: 079.555.8X; số Imei: 359761978792178.

- 01 xe mô tô hiệu Honda SH 150i màu đen mang BKS 43H1-X; số khung: RLHKF4205NY111969; số máy: KF42E0053928.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn D tại số 60/10 Mẹ Suốt, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 01/12/2023, Cơ quan CSĐT Công an TP.Đà Nẵng không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Xét nghiệm ma tuý đối với Nguyễn D ngày 30/11/2023 cho kết quả: D âm tính với ma tuý.

Qua điều tra xác định: Khoảng cuối tháng 10/2023, Nguyễn D quen biết Võ D Đại (hay còn gọi là “Mập”; sinh ngày: 30/11/2002; trú tại: tổ 40, phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng) qua một lần đi nhậu với bạn bè. Sau đó, Đại và D liên lạc với nhau qua điện thoại và Telegram. Đại rủ D đi giao ma tuý cho Đại và trả công mỗi lần từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng. Tuy đã có công việc là thợ cắt tóc, thu nhập khoảng 7.000.000 đồng/tháng nhưng để có thêm tiền tiêu xài nên D đồng ý lời đề nghị của Đại. Theo đó, Đại đưa ma túy cho D tự cất giữ, mỗi lần từ 20 đến 25 viên thuốc lắc và 05 gam ma túy Ketamine. Đại bỏ ma tuý trong khẩu trang để sẵn trong bụi cây nào đó rồi chụp hình gửi qua Telegram cho D đến lấy. Khi có khách mua ma tuý, Đại dùng số 0877614037 hoặc tài khoản Telegram tên “Mập” số 05889X07 gọi vào số 0795558X của D để báo số lượng ma túy cần bán. D trích ra số lượng ma tuý theo yêu cầu và đi bán cho người mua.

Từ ngày 01/11/2023 đến ngày 30/11/2023, D đã 17 lần bán trái phép chất ma tuý với tổng số tiền bán ma tuý D đã chuyển cho Đại là 77.550.000 đồng. D dùng số tài khoản 1903843428X6 tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương để chuyển tiền vào số tài khoản 0877614037 tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội của Đại (D nhận tiền mặt từ người mua, trừ tiền công của mình ra rồi chuyển khoản số tiền còn lại cho Đại). Tổng số tiền công D nhận được khoảng 7.000.000 đồng, số tiền này D đã tiêu xài cá nhân hết. D không nhớ rõ thời gian, địa điểm, số lượng ma túy cũng như nhân thân, lai lịch những người mua, chỉ xác định được lần gần nhất như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 30/11/2023, Đại liên lạc qua Telegram nói D lấy 03 viên thuốc lắc và 01 gói ketamine đi bán cho khách của Đại tại đường Loseby, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng. D lấy số lượng ma tuý nói trên bỏ vào mảnh giấy trắng vo tròn lại rồi bỏ vào túi sau bên trái quần jean D đang mặc và điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH 150i màu đen mang BKS 43H1-X đến điểm hẹn để giao cho khách. Khi đi đến đường Loseby, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, tạm giữ cùng toàn bộ số ma tuý D cất giấu trong người và trong cốp xe mô tô nói trên.

Tại Kết luận giám định số 1036/KL-KTHS ngày 08/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng:

- Mẫu viên nén màu trắng trong mẫu ký hiệu A2, B2 gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu A2: 1,140 gam; mẫu B2: 12,095 gam.

- Mẫu tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu A1, B1 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine; khối lượng mẫu A1: 1,612 gam; mẫu B1: 7,750 gam.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma tuý tại một số điều của BLHS năm 2015, tỷ lệ phần trăm khối lượng của 9,362 gam ma tuý loại Ketamine và 13,235 gam ma tuý loại MDMA so với mức tối thiểu tại khoản 3 Điều 251 BLHS là:

(9,362gam/100gam + 13,235gam/30gam)x100 = 9,36% + 44,17% = 53,53% (dưới 100%).

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số: 76/CT-VKS ngày 08/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng thì bị cáo bị truy tố về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: điểm b, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn D từ 08 năm đến 09 năm tù.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong ký hiệu A, B chứa toàn bộ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo Kết luận giám định số 1036/KL-KTHS ngày 08/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; sim điện thoại số sim số: 079.555.8X trên sim có số 6478.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim: 079.555.8X; số Imei: 359761978792178 của Nguyễn D.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Để có thêm tiền tiêu xài cá nhân, từ ngày 01/11/2023 đến ngày 30/11/2023, Nguyễn D đã 17 lần đi bán trái phép ma túy cho Võ D Đại với tổng số tiền bán trái phép ma tuý là 77.550.000 đồng; tổng số tiền công D nhận của Đại khoảng 7.000.000 đồng. Đến khoảng 22 giờ ngày 30/11/2023, theo yêu cầu của Đại, D điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH 150i màu đen mang BKS 43H1-X mang theo 1,140 gam ma tuý MDMA và 1,612 gam Ketamine để trong túi sau bên trái quần jean đang mặc nhằm bán trái phép cho người khác tại đường Loseby, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang. Tiến hành kiểm tra trong cốp xe của D còn thu giữ được 12,095 gam ma tuý loại MDMA và 7,750 gam ma tuý loại Ketamine của D cất giấu nhằm mục đích bán trái phép cho người mua để kiếm lời. Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình như cáo trạng số: 76/CT-VKS ngày 08/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà TP. Đà Nẵng đã truy tố và đề nghị mức hình phạt như trên đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[1] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy:

Bị cáo Nguyễn D là thanh niên mới lớn, có công việc làm nhưng bị cáo không lo tu chí lao động phụ giúp gia đình, bị cáo muốn có tiền tiêu xài nên khi nghe Võ D Đại thuê đi bán ma tuý được trả công thì bị cáo đồng ý ngay, chỉ từ ngày 01/11/2023 đến ngày 30/11/2023 bị cáo đã 17 lần đi bán ma tuý cho Đại với tổng số tiền là 77.550.000đ và bị cáo được hưởng lợi 7.000.000đ thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Khi bị bắt quả tang bị cáo đi bán ma tuý thì ma tuý thu giữ là 03 viên thuốc lắc và 01 gòi Ketamin. Tại Kết luận giám định số 1036/KL- KTHS ngày 08/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng: Mẫu viên nén màu trắng trong mẫu ký hiệu A2, B2 gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu A2: 1,140 gam; mẫu B2: 12,095 gam; Mẫu tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu A1, B1 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine; khối lượng mẫu A1: 1,612 gam; mẫu B1: 7,750 gam. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma tuý tại một số điều của BLHS năm 2015, tỷ lệ phần trăm khối lượng của 9,362 gam ma tuý loại Ketamine và 13,235 gam ma tuý loại MDMA so với mức tối thiểu tại khoản 3 Điều 251 BLHS là: (9,362gam/100gam + 13,235gam/30gam) x100 = 9,36% + 44,17% = 53,53% (dưới 100%) nên thuộc điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Nguyễn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của D đã xâm phạm đến chế độ độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của nhà nước, xâm phạm an ninh trật tự, xâm phạm đến sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Do đó bị cáo cần phải xử phạt mức án nghiêm. Tiếp tục cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[2] Đối với các đối tượng:

- Đối với Võ D Đại: Kết quả sao kê tài khoản ngân hàng của D và Đại cho thấy có 17 lần D chuyển tiền cho Đại với tổng số tiền 77.550.000 đồng, 17 lần chuyển tiền đều không ghi nội dung giao dịch nhưng theo lời khai của D đó là số tiền bán ma tuý có được; D nhận dạng được Đại qua bản ảnh. Tuy nhiên hiện Đại không có mặt tại địa phương, gia đình bán nhà chuyển đi đâu không rõ, ngoài lời khai của D về 17 lần chuyển tiền bán ma tuý qua tài khoản của Đại ra không có chứng cứ nào khác. Do vậy để làm rõ hành vi của Đại và đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định truy tìm số 61 ngày 09/01/2024 và Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà tách vụ án hình sự để tiếp tục điều tra đối với Võ D Đại là có căn cứ. HĐXX tiếp tục kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà tiếp tục điều tra xử lý đối với Võ D Đại.

- Đối với bà Nguyễn Thị B (SN: 1969; trú tại: tổ 33, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng) - mẹ ruột của D: D mượn căn cước công dân của bà B đăng ký và sử dụng số điện thoại 0795558X. Việc D sử dụng số điện thoại này để thực hiện hành vi phạm tội bà B không biết do vậy Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập xử lý hình sự đối với bà B là có căn cứ. Do đó HĐXX không xem xét.

- Đối với chị Võ Thị Kim L (SN: 2000; trú tại: khối phố Bình An, thị trấn T Kỳ, huyện T Phước, tỉnh Quảng Nam) – đứng tên số điện thoại 05889X07 (số của Đại sử dụng để liên hệ với D): Chị L không biết và không sử dụng số điện thoại này, chị L không biết vì sao số điện thoại đăng ký tên mình và không quen biết ai có tên Võ D Đại. Hiện chưa truy tìm được Đại, không có cơ sở xác định chị L có liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma tuý do vậy Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập xử lý hình sự đối với chị L là có căn cứ. Do đó HĐXX không xem xét.

- Đối với chị Hà Thị Xuân H (SN: 1988; trú tại: xã Q, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam), anh Mai Văn T (SN: 1993; trú tại: 30 T, quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng), anh Trần Sư K (SN: 1993; trú tại: thị trần Vân Dương 1, xã H, huyện Hoà Vang, TP.Đà Nẵng): Chị H là chủ sở hữu xe mô tô hiệu Honda SH 150i màu đen mang BKS 43H1-X. Chị H bán xe mô tô nói trên cho anh T nhưng chưa sang tên đổi chủ, sau đó anh T tân trang lại xe và bán lại cho anh K - chủ cửa hàng cho thuê xe dịch vụ T Phước (địa chỉ: 14 Âu Cơ, phường H, quận Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng). Anh K cho D thuê xe mô tô nói trên để đi (hợp đồng cho thuê từ ngày 20/11/2023 đến ngày 20/12/2023). Việc D sử dụng xe này để thực hiện hành vi phạm tội chị H, anh T và anh K không biết nên Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà không đề cập xử lý hình sự đối với chị H, anh T và anh K là có căn cứ. Do đó HĐXX không xem xét.

[4] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong ký hiệu A, B chứa toàn bộ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo Kết luận giám định số 1036/KL-KTHS ngày 08/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; sim điện thoại số sim số: 079.555.8X trên sim có số 6478.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imei: 359761978792178 của Nguyễn D.

- Truy thu số tiền thu lợi bất chính 7.000.000đ của Nguyễn D.

[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn D phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1/ Căn cứ: điểm b, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn D 08 (Tám) năm tù, thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giam, tạm giữ, ngày 30/11/2023

2/ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong ký hiệu A, B chứa toàn bộ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định kèm theo Kết luận giám định số 1036/KL-KTHS ngày 08/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; sim điện thoại số sim số: 079.555.8X trên sim có số 6478.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imei: 359761978792178 của Nguyễn D.

(Tất cả vật chứng trên, hiện do Chi cục Thi hành án Dân sự quận Sơn Trà quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/7/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà và Chi cục thi hành án dân sự quận Sơn Trà).

- Truy thu số tiền thu lợi bất chính 7.000.000đ của Nguyễn D.

3/ Đối hành vi của Võ D Đại: HĐXX kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà tiếp tục điều tra xử lý đối với Võ D Đại tránh bỏ lọt tội phạm.

4/ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 85/2024/HS-ST

Số hiệu:85/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về