Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 81/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 81/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2024/HSST ngày 01 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2024/QĐXXST – HS ngày 07 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên Nguyễn Phước L Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1992; Tại: tỉnh Đắk Lắk; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn X, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu D và con bà Sử Thị T. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 18/12/2023 chuyển sang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim Ph – sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn S, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Phước L là người sử dụng ma túy đá (Methamphetamine), do không có nghề nghiệp ổn định và cần tiền tiêu xài nên L nảy sinh ý định mua ma túy về bán kiếm lời. Từ các mối quan hệ ngoài xã hội và từ những người sử dụng ma tuý khác, L biết được có một người nam giới tên thường gọi là Hoàng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch), sử dụng số điện thoại 0943.298.xxx bán ma tuý đá. Vào ngày 18/12/2023, L sử dụng điện thoại di động, nhãn hiệu: itel; màu: Đen; gắn sim số: 0901.416.xxx của L liên lạc với Hoàng để mua 800.000 đồng (Tám trăm ngàn đồng) ma tuý đá, Hoàng đồng ý và hẹn L đến khu vực đường N, thuộc địa bàn phường T, TP. B để bán ma tuý. Sau đó, L điều khiển xe mô tô, gắn biển số 47B2 – 632.xx, một mình đi đến điểm hẹn, gặp Hoàng và đưa cho Hoàng số tiền 800.000đ (Tám trăm ngàn đồng) Hoàng đưa cho L 01 (Một) gói nylon màu trắng, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể, màu trắng, được hàn kín (thường gọi là ma tuý đá). Sau khi mua được ma tuý đá, L cất giấu tại túi quần trước, bên phải L đang mặc với mục đích có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Đến khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, có môt nam thanh niên sử dụng số điện thoại 0961.177.xxx gọi đến số điện thoại 0901.416.xxx của L hỏi mua 01 (một) gói ma tuý đá, L báo giá bán là 900.000đ (chín trăm ngàn đồng) thì người nam thanh niên trên đồng ý và hẹn L đến khu vực đường N, đối diện siêu thị COOPMART để bán ma tuý. Sau đó, L điều khiển xe mô tô, gắn biển số 47B2 – 632.xx, một mình đi đến điểm hẹn; khi đi tới trước nhà số 220 đường N, phường T, TP B, chưa kịp bán ma tuý thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang. L tự nguyện lấy từ trong túi quần trước, bên phải quần L đang mặc ra giao nộp 01 (một) gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể, màu trắng, hàn kín, Cơ quan công an tiến hành thu giữ tang vật và niêm phong trong phong bì có các chữ ký, ghi tên của Nguyễn Phước L, Lê Xuân H, Nguyễn Bá H1, Nguyễn Anh T và đóng dấu tròn màu đỏ của Công an phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk.

Tại Bản kết luận giám định số: 19/KL–KTHS ngày 27 tháng 12 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1375gam, loại: Methamphetamine.

Hoàn lại đối tượng gửi giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có khối lượng 0,1079gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.

Tại Bản Kết luận giám định số 88/KL–KTHS ngày 04 tháng 01 năm 2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

01 xe mô tô nhãn hiệu HALIM, có số khung RHMDCG064HM000511, số máy VUMHMCT100000714, biển số 47B2–632.xx có số khung: Không thay đổi. Số máy: Không thay đổi. Biển số: biển số thật.

Tại bản cáo trạng số: 80/CT–VKS ngày 29 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Phước L về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa và quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phước L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Phước L mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 0,1079gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong một phong bì ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ Nguyễn Phước L –BMT”, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Anh T, Lê Khắc N và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu, itel, màu đen, số imel: 358625108429848, gắn sim số: 0901.416.xxx, máy đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Phước L sử dụng vào hành vi phạm tội.

– Đối với 01 (một) xe mô tô, hiệu nhãn hiệu: HALIM, màu sơn xanh, gắn biển số 47B2–X; số khung RHMDCG064HM000511, số máy VUMHMCT100000714; tạm giữ của Nguyễn Phước L. Quá trình điều tra, xác định chị Nguyễn Thị Kim P (chị ruột của bị cáo Nguyễn Phước L), sinh năm 1983, địa chỉ: Thôn S, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, mua chiếc xe mô tô biển số 47B2 – 632.xx của anh Nguyễn Tuấn H; sinh năm: 1977, trú tại: 380 đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là người đứng tên chủ sở hữu xe, nhưng chưa đăng ký chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên chưa làm việc được với anh Nguyễn Tuấn H nên tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý theo quy định.

Bị cáo Nguyễn Phước L không bào chữa và tranh luận gì. Bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Phước L tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Ngày 18/12/2023, Nguyễn Phước L có hành vi mua 0,1375gam ma túy loại Methamphetamine với số tiền 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng), mục đích để bán thu lợi bất chính. Cùng ngày 18/12/2023 tại trước số nhà 220 đường N, phường T, thành phố B, Nguyễn Phước L có hành vi bán trái phép 0,1375gam ma túy loại Methamphetamine cho người khác nhằm thu lợi bất chính số tiền 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng) nhưng chưa kịp bán, thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Phước L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, bị cáo Nguyễn Phước L là công dân có đủ khả năng để nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo phải biết được rằng ma túy là chất gây nghiện thuộc sự quản lý độc quyền của nhà nước, mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Song do ý thức coi thường pháp luật, động cơ thu lợi bất chính, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Xét về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Xét thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra gia đình bị cáo có cha là ông Nguyễn Hữu D và mẹ là Sử Thị T được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ nên cần xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo trong quá trình lượng hình.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, sống biết tôn trọng pháp luật và nhằm răn đe phòng ngừa chung trong đấu tranh phòng chống tội phạm.

[5] Đối với nguồn gốc chất ma tuý trong vụ án, bị cáo Nguyễn Phước L khai nhận mua của một người nam giới có tên thường gọi là Hoàng sử dụng số điện thoại 0943.298.xxx và người nam giới sử dụng số điện thoại 0961.177.xxx mua ma tuý của bị cáo Nguyễn Phước L; ngày 29/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Buôn Ma Thuột có Công văn số 2730/YC–ĐCSMT và Lệnh thu giữ thư tín, điện tín số 54/LTG–ĐCSMT gửi Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam – VNPT và Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel) cung cấp thông tin liên quan nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời và chưa xác định được nhân thân, lai lịch của những đối tượng trên. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Buôn Ma Thuột tách hành vi của những đối tượng trên ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật. .

– Đối với chị Nguyễn Thị Kim P, là người quản lý xe mô tô biển số 47B2 – 632.xx. Quá trình điều tra xác định, chị P không biết bị cáo Nguyễn Phước L sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, không đề cập xử lý đối với chị Nguyễn Thị Kim P.

[6] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

– Tịch thu tiêu hủy: 0,1079gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong một phong bì ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ Nguyễn Phước L –BMT”, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Anh T, Lê Khắc N và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án.

– Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu, itel, màu đen, số imel: 358625108429848, gắn sim số: 0901.416.xxx, máy đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Phước L sử dụng vào hành vi phạm tội.

Đối với 01 (một) xe mô tô, hiệu nhãn hiệu: HALIM, màu sơn xanh, gắn biển số 47B2–632.xx; số khung RHMDCG064HM000511, số máy VUMHMCT100000714; tạm giữ của Nguyễn Phước L. Quá trình điều tra, xác định chị Nguyễn Thị Kim P (chị ruột của bị cáo Nguyễn Phước L), sinh năm 1983, địa chỉ: Thôn S, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, mua chiếc xe mô tô biển số 47B2 – 632.xx của anh Nguyễn Tuấn H; sinh năm: 1977, trú tại: 380 đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là người đứng tên chủ sở hữu xe, nhưng chưa đăng ký chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên chưa làm việc được với anh Nguyễn Tuấn H nên tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý theo quy định.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phước L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phước L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt (ngày 18/12/2023).

*Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

– Tịch thu tiêu hủy: 0,1079gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong một phong bì số 19/KL–KTHS, bên ngoài bì thư ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ Nguyễn Phước L –BMT”, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Anh T, Lê Khắc N và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án.

– Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu, itel, màu đen, số imel: 358625108429848, gắn sim số: 0901.416.xxx, máy đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Phước L sử dụng vào hành vi phạm tội.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đặc điểm cụ thể theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lưu tại hồ sơ vụ án).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Phước L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 81/2024/HS-ST

Số hiệu:81/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về