Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 81/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023, đối với:

Bị cáo: Phm Thị N, sinh năm 1983 tại Thành phố Hà Nội; nơi ĐKHKTT: Số 85 ngõ L, phường Q, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; Chỗ ở trước khi phạm tội: Xóm C, xã T, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đăng Q1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th; chồng: Không chồng nhưng có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011; gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2017/HSST ngày 19/4/2017, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội ‘Mua bán trái phép chất ma túy’ theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; ngày 14/4/2019 chấp hành xong hình phạt (đã được xoá án tích).

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/02/2023; hiện đang giam tại Trại tạm giam số I Công an Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với mục đích mua ma tuý về để sử dụng và bán để kiếm lời nên khoảng ngày 12/02/2023, Phạm Thị N mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi 05 viên ma tuý hồng phiến và hơn 01 gam ma tuý đá với giá 2.500.000 đồng tại địa chỉ trước cửa số nhà 176 phố Bạch Mai, phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Khoảng sáng ngày 19/02/2023, khi Phạm Thị N đang dạy học ở trường tiểu học Trung Hoà, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội thì nhận được điện thoại từ số 0583.154.462 của Ngọc Mai (là bạn quen qua mạng, không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy đá và 05 viên ma túy hồng phiến. N đồng ý bán cho Mai 04 viên hồng phiến và 01 ít ma túy đá với giá 1.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận sẽ giao dịch mua bán tại trước sảnh chung cư Ecohome 2, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, Phạm Thị N đến nhà bạn là Nguyễn Trường Giang (sinh năm 1986; HKTT: Số 19, ngõ 400 Hoàng Hoa Thám, phường Thuỵ Khuê, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) ở căn hộ P0314 chung cư Ecohome 2, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm để chơi, N có mang theo 01 ba lô bên trong chứa ma tuý để bán cho “Ngọc Mai”. N để ba lô trong phòng của Giang. Khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày 19/02/2023, “Ngọc Mai” điện thoại nói là đã đến sảnh chung cư Ecohome 2, N xuống để giao dịch mua bán ma túy. Khi N đang đi dưới sảnh chung cư Ecohome 2 đợi “Ngọc Mai” để bán ma tuý thì bị tổ công tác Công an phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm kiểm tra, bắt giữ. Quá trình bắt giữ, Phạm Thị N đã giao nộp cho cơ quan Công an 01 túi nilon màu trắng kích thước (7x12cm) bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng trong túi ba lô cất ở căn hộ của Nguyễn Trường Giang tại P0314 chung cư Ecohome 2, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ của Phạm Thị N gồm:

+ 01 túi nilong màu trắng kích thước (3x5) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 04 viên nén hình tròn màu hồng.

+ 01 điện thoại Iphone 12 màu trắng lắp sim số 0971.689.078.

+ 01 túi nilong màu trắng kích thước (7x12) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng.

Ngày 20/02/2023, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Thị N tại số 4 xóm Chùa, ngõ 304, Tựu Liệt, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội, không thu giữ được gì liên quan đến ma tuý.

Ngày 20/02/2023, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định số 126, giám định số ma tuý thu giữ của Phạm Thị N.

Tại bản Kết luận giám định số 1050 ngày 27/02/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon kích thước (3x5) cm khối lượng 0,310 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 04 viên nén màu hồng tổng khối lượng 0,381 gam đều là ma túy loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon kích thước (7x12) cm khối lượng 2,465 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- 01 viên nén màu hồng khối lượng 0,098 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Thị N đã khai nhận hành vi như đã nêu trên và khai: Mục đích mua ma túy về để bán kiếm thêm thu nhập, đây là lần đầu N bán ma tuý cho “Ngọc Mai” thì bị bắt, số tiền mua ma túy do lao động mà có. Việc N để ma túy tại nhà Giang thì Giang không biết và không liên quan gì đến hành vi mua bán ma túy.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Trường Giang khai: Phạm Thị N là bạn. Giang có mời N đến nhà Giang chơi, việc N mang theo ma tuý để ở nhà Giang, sau đó bán ma tuý cho “Ngọc Mai”, Giang không biết, không bàn bạc gì. Xét nghiệm ma tuý trong cơ thể cho kết quả: Giang không sử dụng ma tuý nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Tiến hành xác minh số điện thoại 0941.945.597 là người bán ma túy cho N, xác định người đứng tên số thuê bao trên là anh Bùi Quang Huy, sinh năm 1999; HKTT: Số 20 ngõ 8 phố Lê Lợi, phường Nguyễn Trãi, quận Hà Đông, Hà Nội. Tại cơ quan điều tra, anh Huy khai không sử dụng và không biết ai hiện đang sử dụng số điện thoại trên, anh không liên quan gì đến hành vi mua bán ma túy.

Đối với điện thoại di động, ma tuý thu giữ của Phạm Thị N là vật chứng liên quan đến vụ án nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản cáo trạng số 84/CT-VKSBTL ngày 27/4/2023, Viện Kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Phạm Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Thị N đã khai nhận hành vi phạm tội, đúng với nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Thị N từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 20/02/2023.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Phạm Thị N, cán bộ Công an phường và giám định viên.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại kiểu dáng Iphone Pro 12 màu trắng lắp số điện thoại 0971689078 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, tại thời điểm bàn giao không lên nguồn;

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị N không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Thị N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 19 tháng 02 năm 2022, tại khu vực sảnh C2, toà nhà Ecohome 2, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Phạm Thị N có hành vi tàng trữ 0,691 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời. Ngoài ra Phạm Thị N còn tàng trữ 2,846 gam Methamphetamine tại căn hộ P0314 chung cư Ecohome 2, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm. Cộng là 3,537 gam, đều nhằm mục đích để bán kiếm lời.

Hành vi của Phạm Thị N tàng trữ ma túy với mục đích để bán cho người khác đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố bị cáo về tội danh và viện dẫn điều luật nêu trong cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, đã tiếp tay cho các đối tượng mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong nhân dân. Do vậy cần phải xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, đồng thời đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự [4.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2017 đã bị Tòa án quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, mặc dù đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp * Về xử lý vật chứng - 02 (hai) phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Phạm Thị N cùng cán bộ Công an phường và giám định viên, là chất cấm cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại kiểu dáng Iphone Pro 12 màu trắng lắp số điện thoại 0971689078 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, tại thời điểm bàn giao không lên nguồn dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt Bị cáo Phạm Thị N 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 20/02/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự - Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Phạm Thị N cùng cán bộ Công an phường và giám định viên.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại kiểu dáng Iphone Pro 12 màu trắng lắp số điện thoại 0971689078 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, tại thời điểm bàn giao không lên nguồn dùng.

(Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 149/23 ngày 08/5/2023 giữa Công an quận Bắc Từ Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Phạm Thị N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Bị cáo Phạm Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về