Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 78/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 78/2022/HS -ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà  Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số  66/2022/HSST ngày 16/9/2022,  theo quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số  80/2022/QĐXXST - HS ngày 17/9/2022 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn T; sinh năm 1985; tại thị xã B, tỉnh T; trú tại: Tổ 14 - C, phường L, thị xã B, tỉnh T; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Đ và bà Phạm Thị T; bị cáo có vợ là Mai Thị Đ và có 02 con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2008/HS-ST ngày 20/11/2008, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 13/8/2009.

Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số A0003169 ngày 19/5/2008, bị cáo bị Công an phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn xử phạt 200.000 đồng về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 19/5/2008.

Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0073264 ngày 23/11/2020, bị cáo bị Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc. bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 11/12/2020.

Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/6/2022 đến ngày 10/6/2022 chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Hoàng Văn T1; sinh năm 1983; tại xã H, huyện H, tỉnh T; trú tại: thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: nhân viên bảo vệ; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố: không xác định; con bà Hoàng Thị H; bị cáo có vợ là Đặng Thị H và có 03 con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 213/QĐ- XPVPHC ngày 13/4/2019, bị cáo bị Công an phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 07/5/2019.

Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/6/2022 đến ngày 10/6/2022 chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: - Chị Hoàng Thị X; sinh năm: 1987;

nơi cư trú: Thôn 9, xã Y, huyện Y, tỉnh T, vắng mặt.

- Chị Đặng Thị H; sinh năm: 1992; nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Phạm Văn P; sinh năm: 1974; nơi cư trú: Thôn B, xã  H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN 

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 10 giờ 40 phút ngày 01/6/2022, Công an xã H nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc anh Phạm Văn P, sinh năm: 1974 ở thôn B, xã H, huyện H, tỉnh T sử dụng ma túy dạng cỏ mỹ tại nhà. Tiến hành kiểm tra, P tự nguyện giao nộp 03 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng 4 x 7 cm, có viền màu đỏ, bên trong có hỗn hợp thực vật được cắt nhỏ, sấy khô nghi là ma túy, dạng cỏ mỹ, tiến hành niêm phong ký hiệu “vụ Phạm Văn P”. Phạm Văn P khai 03 túi nilon trên là  “cỏ mỹ”, Phước mua của Hoàng Văn T1 ở thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T vào ngày 31/5/2022 với giá 100.000 đồng.

Căn cứ vào lời khai của Phạm Văn P, Công an huyện Hà Trung đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét đối với Hoàng Văn T1 thu giữ:

03 túi nilong chứa cỏ mỹ, ký hiệu “vụ Hoàng Văn T1”, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 màu đen đã qua sử dụng có gắn sim 1 thuê bao số  0966786100, sim 2 thuê bao số 0865081846 và 01 xe môtô biển kiểm soát 36B6 - 013.11. Hoàng Văn T1 khai nhận: Vào tối ngày 10/5/2022, T1 điện thoại cho Hoàng Văn T ở khu phố C, thị xã B, tỉnh T qua số điện thoại 0985969949 (có lưu trong danh bạ) hỏi mua ma túy (cỏ Mỹ) thì T đồng ý, T1hỏi mua 2.000.000 đồng và hẹn gặp nhau ở khu vực Trung tâm hội nghị ở thị xã Bỉm Sơn để mua bán. T1 đến điểm hẹn thì gặp T, T1 đưa cho T 2.000.000đ (hai triệu đồng), T cầm tiền và đưa lại cho T1 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa cỏ mỹ, T1 cất vào trong cốp xe rồi đem về chia thành các túi nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. T1 sử dụng thì biết được đây là loại ma túy cỏ mỹ cấm lưu hành ở Việt Nam, nhưng vì ham lời nên tối ngày 31/5/2022, T1 bán cho Phạm Văn P 01 túi nilong màu trắng, bên trong có chứa cỏ mỹ giá 100.000 đồng tại thôn V, xã H, huyện H, tỉnh T.

Căn cứ vào lời khai của Hoàng Văn T1, Công an huyện Hà Trung tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Văn T thu giữ: 01 túi nilong màu vàng chứa cỏ mỹ; 01 túi nilong màu trắng có viền đỏ, kích thước khoảng 6 x 12 cm, bên trong có chứa hỗn hợp thực vật được cắt nhỏ, sấy khô, có mùi đặc trưng nghi là ma tuý dạng cỏ mỹ; 04 điếu thuốc lá loại Thăng Long bên trong mỗi điếu đều có chứa hỗn hợp thực vật được cắt nhỏ, sấy khô có mùi đặc trưng nghi là ma tuý dạng cỏ mỹ, ký hiệu “M vụ Hoàng Văn T”; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony XPERIA màu hồng đã qua sử dụng có gắn sim thuê bao 0985969949; 01 xe môtô biển kiểm soát 36P5 - 0177. Hoàng Văn T khai nhận: Vào cuối tháng 4/2022, T có tìm hiểu và biết cỏ mỹ là một loại ma túy bị cấm ở Việt Nam nên T vào các trang mạng xã hội Facebook có tên cỏ mỹ thì thấy rao bán cỏ mỹ và đặt mua một túi trị giá 800.000 đồng, sau khi đặt khoảng 3 ngày thì gửi xe khách về cho T và T tự ra lấy, sau khi mua về T sử dụng xác định đúng là cỏ mỹ. Đến ngày 10/5/2022 thì T bán cho Hoàng Văn T một túi cỏ mỹ với giá  2.000.000 đồng tại Trung  tâm văn  hóa,  thể  thao  thị  xã  Bỉm  Sơn.  Đến  ngày  25/5/2022, T lại tiếp tục đặt mua một túi cỏ mỹ giá 800.000 đồng để đem về sử dụng và bán kiếm lời. Ngày 01/6/2022 khi T đang đi trên đường thì bị công an bắt, thu giữ trên gác xe môtô 01 gói cỏ mỹ.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại nhà P 03 túi nilong màu trắng có viền đỏ bên trong chứa cỏ mỹ;  thu của Hoàng Văn T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 màu đen đã qua sử dụng có gắn sim 1 thuê bao số  0966786100 và sim 2 thuê bao số 0865081846; 01 xe môtô biển kiểm soát 36B6 - 013.11; thu của Hoàng Văn T 01 túi nilong màu vàng chứa cỏ mỹ, 01 túi nilong màu trắng có viền đỏ, kích thước khoảng 6 x 12 cm, bên trong có chứa hỗn hợp thực vật được cắt nhỏ, sấy khô, có mùi đặc trưng nghi là ma tuý dạng cỏ mỹ, 04 điếu thuốc lá loại Thăng Long bên trong mỗi điếu đều có chứa hỗn hợp thực vật được cắt nhỏ, sấy khô có mùi đặc trung nghi là ma tuý dạng cỏ mỹ, 01 xe mô tô biển kiểm soát 36P5 - 0177, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony XPERIA màu hồng đã qua sử dụng có gắn sim thuê bao 0985969949.

Tại bản kết luận giám định số 3512/KL-KTHS ngày 10/6/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

- Không tìm thấy chất ma tuý trong mẫu thực vật được cắt nhỏ, sấy khô, ký hiệu “M vụ Hoàng Văn T”, khối lượng mẫu trong các túi nilong và điếu thuốc lần lượt là: 0,87gam; 1,288gam.

- Không tìm thấy chất ma tuý trong mẫu thực vật được cắt nhỏ, sấy khô trong hộp giấy niêm phong, khối lượng mẫu: 91,670gam.

- Không tìm thấy chất ma tuý trong mẫu thực vật được cắt nhỏ, sấy khô, ký  hiệu “vụ Phạm Văn P”, tổng khối lượng mẫu: 1,432gam.

- Không tìm thấy chất ma tuý trong mẫu thực vật được cắt nhỏ, sấy khô, ký hiệu “vụ Hoàng Văn T1”, tổng khối lượng mẫu: 5,758gam.

Cáo trạng số 82/CT-VKS ngày 16/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện  Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Hoàng Văn T và Hoàng Văn T1 về  tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1, Điều 251 Bộ luật Hình sự năm  2015.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 251; Điều 38; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với cả hai bị cáo; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T1. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 36 (ba mươi sáu)  tháng tù đến 39 (ba mươi chín) tháng tù; xử phạt bị cáo Hoàng Văn T1 từ 27 (hai mươi bảy) tháng tù đến 30 (ba mươi) tháng tù; về vật chứng: tịch thu tiêu hủy số cỏ mỹ còn lại sau giám định; truy thu số tiền  2.000.000 đồng của Hoàng Văn T  và 100.000 đồng của Hoàng Văn T1, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 điện thoại di động, 01 xe môtô của Hoàng Văn T; buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các  tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được  tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Ngày  10/5/2022, Hoàng Văn T đã thực hiện hành vi bán 01 gói cỏ mỹ cho Hoàng Văn T1 với giá 2.000.000 đồng. Hoàng Văn T1 sau khi mua cỏ mỹ của T về sử dụng, đến ngày 31/5/2022 T1 bán cho Phạm Văn P một túi nhỏ cỏ mỹ lấy 100.000 đồng. Mặc dù kết luận giám định không tìm thấy chất ma túy trong mẫu giám định nhưng theo quy định tại tiểu mục 1.4 mục 1, phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT- BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì “Nếu chất thu được giám định không phải là ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng đó là chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy”. Hoàng Văn T và Hoàng Văn T1 nhận thức được cỏ mỹ là một loại ma túy, do hám lợi nên các bị cáo đã mua về bán để kiếm lời. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố các bị cáo Hoàng Văn T và Hoàng Văn T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1, Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Đây là chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.

Hoàng Văn T không những phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số cỏ mỹ thu giữ được tại nhà mà còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số cỏ mỹ thu giữ của Hoàng Văn T1 và Phạm Văn P. Tổng khối lượng cỏ mỹ bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là 101,018gam. Bị cáo còn là đối tượng đã bị kết án, tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2008/HS-ST ngày 20/11/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, bị cáo còn hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính: ngày 19/5/2008, bị cáo bị Công an phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn xử phạt 200.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; ngày 23/11/2020, bị cáo bị Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, mặc dù bị cáo đã chấp hành xong bản án và các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đã được xóa án tích và được coi là chưa bị xử lý hành chính, nhưng điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân rất xấu. Vì vậy, bị cáo phải chịu mức hình phạt cao hơn so với T1 và phải cách ly khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe phòng ngừa chung.

Hoàng Văn T1 phải chịu trách nhiệm hình sự đối với toàn bộ  số cỏ mỹ thu giữ của Toản và Phạm Văn P với tổng khối lượng thu giữ được là 7,19gam. Ngoài ra, Hoàng Văn T1 cũng là đối tượng đã 01 lần xử phạt vi phạm hành chính: tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 213/QĐ-XPVPHC ngày 13/4/2019 bị cáo bị Công an phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Mặc dù bị cáo đã chấp hành xong quyết định này nhưng điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, do đó cũng phải cách ly   bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tại, giáo dục bị cáo, đồng  thời để răn đe phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự  là thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo T1 có mẹ là bà Hoàng Thị H được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, thuộc trường hợp gia đình có công với cách mạng, đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Trong vụ án này, Phạm Văn P đã có hành vi tàng trữ 1,432gam cỏ mỹ để sử dụng. Tuy nhiên, bị cáo không ý thức rằng đây là chất ma túy, kết quả giám định cũng kết luận không tìm thấy chất ma túy trong cỏ mỹ nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với Phước.

[3]. Về vật chứng: Số cỏ mỹ cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu huỷ. Số tiền 2.000.000 đồng T bán cho T1 và số tiền 100.000 đồng T1 bán cho P, đây là tiền do các bị cáo phạm tội mà có nên phải truy thu nộp ngân sách Nhà nước. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 gắn sim 1 thuê bao số 0966786100 và sim 2 thuê bao số 0865081846, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony XPERIA màu hồng, gắn sim thuê bao 0985969949, 01 chiếc xe môtô biển kiểm soát 36P5 – 0177 của Hoàng Văn T là phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe môtô biển kiểm soát 36B6 - 013.11 là tài sản chung của Hoàng Văn T1 và chị Đặng Thị H, T1 không sử dụng chiếc xe trên vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đã trả lại cho chị Đặng Thị H (vợ T1) là đúng quy định.

[4]. Về án phí:  Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ khoản 1, Điều 251; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với cả hai bị cáo; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Toản.

1. Về tội danh: Các bị cáo Hoàng Văn T và Hoàng Văn T1 phạm tội “Mua  bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 01/6/2022.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T1 27 (hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 01/6/2022.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: Số cỏ mỹ cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định được đựng trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 gắn sim 1 thuê bao số 0966786100 và sim 2 thuê bao số 0865081846, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony XPERIA màu hồng, gắn sim thuê bao 0985969949, 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA biển kiểm soát 36P5 - 0177.

Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.000.000 đồng của Hoàng Văn T và 100.000 đồng của Hoàng Văn T1 là tiền do các bị cáo phạm tội mà có.

Đặc điểm của phong bì niêm phong và các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 27/9/2022.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Hoàng Văn T và Hoàng Văn T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 78/2022/HS-ST

Số hiệu:78/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về