Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 773/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 773/2023/HS-PT NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 448/2023/TLPT-HS ngày 22 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Trần Minh Đ do có kháng cáo của bị cáo Trần Minh Đ đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng nghị: Trần Minh Đ, sinh ngày 13/8/1986; Nơi sinh: tỉnh Bình Dương; Nơi đăng ký thường trú: Tổ C, khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở: Ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Không; Họ tên cha: Không rõ; Họ tên mẹ: Thị Ngọc Y, sinh năm 1964 (đã chết); Họ tên vợ: Anh Thị Mỹ L, sinh năm 1998. Bị cáo có 01 người em sinh năm 1988 và 02 người con sinh năm 2017 và 2019.

Tiền sự: Ngày 26/11/2009, bị áp dụng biện pháp đưa vào trường chữa bệnh tại Trung tâm chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội tỉnh B với thời hạn 24 tháng. Đến ngày 04/5/2011 bỏ trốn khỏi trung tâm, đến nay chưa chấp hành xong.

Tiền án: Ngày 28/3/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 02/11/2022, chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm nên chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25 tháng 11 năm 2021 đến nay (có mặt).

- Bị cáo có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo: Anh Thị Mỹ L, tên gọi khác: T; Sinh ngày 18/4/1998; Nơi sinh: tỉnh Bình Phước; Nơi đăng ký thường trú: Tổ C, khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở: Ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12; Họ tên cha: Anh Văn T1, sinh năm 1963; Họ tên mẹ: Lâm Thị N, sinh năm 1961; Họ tên chồng: Trần Minh Đ, sinh năm 1986 là bị cáo trong cùng vụ án.

Bị cáo có 03 anh em, lớn nhất sinh năm 1994, bị cáo là con út trong gia đình và có 02 người con sinh năm 2017 và 2019; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/11/2021 đến nay (có mặt).

Bị cáo Anh Thị Mỹ L1 có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Thông báo về việc rút kháng cáo số 31/2023/TB-TA ngày 21/8/2023 theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Minh Đ và Anh Thị Mỹ L1 là vợ chồng, Đ là người sử dụng chất ma túy.

Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 25/11/2021, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy và Đội Cảnh sát trật tự thuộc Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh B phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đ và Công an phường T tuần tra phát hiện xe ô tô hiệu Ford biển số kiểm soát 93C- 148.18 đang dừng tại khu vực Q thuộc phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện trong xe có một mình Trần Minh Đ đang ngồi trên ghế lái. Qua kiểm tra phát hiện trong hộc để đồ kế cần số xe có 01 vỏ bao thuốc lá “555” bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “JET” bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; Trong hộp đựng đồ dưới bệ để tay bên phải tài xế có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 chai nhựa, 01 đoạn ống hút, 01 nỏ thủy tinh bên trong chứa tinh thể màu trắng; Trên mặt bảng táp lô phía trước người ngồi bên phụ xe có 05 ống kim tiêm còn mới chưa qua sử dụng, nên tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Minh Đ cùng tang vật.

Qua trình điều tra chứng minh được: Khoảng tháng 6/2021 (không rõ ngày), Trần Minh Đ thường xuyên mua ma túy từ Thành phố Hồ Chí Minh đem về nhà tại ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước chia nhỏ, cất giấu để bán lại cho người khác kiếm tiền lời. Đến tháng 10/2021 (không rõ ngày), Đ nói L1 ở nhà bán ma túy cho Đ, thì L1 đồng ý. Từ tháng 6/2021 (không rõ ngày) đến ngày 25/11/2021, Đ bán ma túy cho các con nghiện tổng cộng 14 lần, thu lợi bất chính số tiền 6.750.000 đồng; Từ tháng 10/2021 đến ngày 22/11/2021, L1 bán ma túy cho các con nghiện tổng cộng 09 lần, thu lợi bất chính số tiền 4.000.000 đồng, cụ thể như sau:

Đ bán ma túy cho Nguyễn Như C cư trú tại tổ C, ấp E, xã M, thị xã C, tỉnh Bình Phước tổng cộng 05 lần:

Lần thứ nhất: Khoảng cuối tháng 6/2021 (không rỗ ngày), C đến nhà của Đ ở ấp P, xã T, huyện Đ, Bình Phước, Đ bán cho C 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng.

Lần thứ hai: Khoảng đầu tháng 7/2021 (không rõ ngày), C đến nhà của Đ, Đ bán cho C 01 gói ma túy với giá 700.000 đồng.

Lần thứ ba: Ngày 24/6/2021, C đến nhà của Đ, Đ bán cho C 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng, do không đủ tiền nên C chuyển khoản 950.000 đồng từ số tài khoản 050113658085 mở tại Ngân hàng S1 chi nhánh C1 đến tài khoản của Đ số 050115917029 mở tại Ngân hàng S1.

Lần thứ tư: Ngày 05/7/2021, c đến nhà của Đ, Đ bán cho COI gói ma túy với giá 1.000. 000 đồng, c chuyển khoản cho Đ 300.000 đồng và trả tiền mặt cho Đ 700.000 đồng.

Lần thứ năm: Ngày 29/7/2021, C đến nhà của Đ, Đ bán cho C 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng, C chuyển khoản cho Đ số tiền 1.000.000 đồng.

L1 bán ma túy cho Nông Tuấn L2 cư trú tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước 03 lần.

Khoảng tháng 8/2021 (không rõ ngày), L2 đến nhà của L1, L1 bán ma túy cho L2 02 lần, mỗi lần 01 tép ma túy đá với giá 200.000 đồng.

Ngày 19/11/2021, L2 đến nhà của L1, L1 bán cho L2 01 tép ma túy đá với giá 200.000 đồng.

Đ bán ma túy cho Hoàng Thị Ú cư trú tại ấp S, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước 02 lần:

Lần thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 19/11/2021, Ú đến nhà thì gặp Đ và hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, Đ đồng ý, Ú đưa tiền qua hàng rào sắt cho Đ, sau đó Đ đi vào trong xe ô tô lấy ra một gói nylon bên trong có ma túy đưa cho Ú.

Lần thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 22/11/2021, Ú đến nhà và gặp Đ, Đ bán cho Ú 01 gói ma túy với giá 600.000 đồng.

Đ và L1 bán ma túy cho Nguyễn Ngọc T2 cư trú tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước 02 lần:

Lần thứ nhất: Khoảng 19 giờ ngày 22/11/2021, T2 đến nhà gặp Đ hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá, thì Đ đồng ý. T2 đưa tiền qua hàng rào sắt và Đ đưa lại cho T2 một gói ma túy.

Lần thứ hai: Khoảng đầu tháng 11/2021 (không rõ ngày), Ú đến nhà của L1 hỏi mua ma túy, Ú đưa tiền qua hàng rào sắt cho L1 rồi L1 đưa lại ma túy cho Ú. Ngoài ra, Ú khai còn mua ma túy trực tiếp từ L1 khoảng 07 đến 08 lần, mỗi lần từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, nhưng không nhớ ngày tháng cụ thể.

Đ và L1 bán ma túy cho Đồng Thị Ngọc Y1 cư trú tại khu phố S, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước 02 lần:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ ngày 22/11/2021, Y1 đến nhà Đ và L1, Y1 gặp trực tiếp L1 hỏi mua 02 tép ma túy với giá 500.000 đồng, thì L1 đồng ý. Y1 đưa tiền qua hàng rào sắt, L1 nhận tiền sau đó ném ma túy ra cho Y1.

Lần thứ hai: Vào ngày 25/10/2021, Y1 điện thoại cho Đ hỏi mua ma túy, thì Đ đồng ý và hẹn Y1 đến khu vực gần nhà nghỉ A1 thuộc khu phố S, phường T, thành phố Đ, Bình Phước. Tại đây, Đ bản cho Y1 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng.

Ngoài ra, trong ngày 22/11/2021, L1 bán 03 tép ma túy cho 03 người nữa nhưng không rõ nhân thân, lai lịch được 600.000 đồng, tổng số tiền bán ma túy có được ngày 22/11/2021 là 1.100.000 đồng, L1 sử dụng và tiêu xài cá nhân.

Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2021 (không rõ ngày) đến ngày 20/11/2021, Đ và L1 bán ma túy cho Nguyễn Xuân M cư trú tại tổ A, ấp T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước tổng cộng 07 lần (trong đó Đ bán cho M 04 làn, L1 bán cho M 03 lần, mỗi lần giá 300.000 đồng/01 tép).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Minh Đ tại ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước, kết quả khám xét thu giữ gồm:

Tại kệ dép bằng gỗ để ở trước hành lang có 01 túi nylon, quai màu trắng bên trong có 01 gói nylon miệng kéo dính, kích thước (11,0 x 7,5)cm chứa tinh thể màu trắng; 01 gói nylon miệng kéo dính, kích thước (11,0 x 7,0)cm chứa tinh thể màu trắng; 01 gói nylon miệng kéo dính, kích thước (7,5 x 5,0)cm chứa tinh thể màu tráng; 01 gói nylon miệng kéo dính, kích thước (5,0 x 4,0)cm chứa chất rắn màu trắng; 01 túi nylon quai xách màu vàng bên trong có nhiều gói nylon miệng kéo dính, kích thước (4,5 x 4,0)cm bên trong không có gì.

Trên cây phơi quần áo ở khu vực gần phòng bếp phát hiện một balo bằng vải màu xanh, hoa văn tím - trắng, bên trong có 01 túi nylon quai xách màu hồng đựng: 01 gói nylon mở một đầu được quấn tròn, kích thước (24,0 x 15,0)cm chứa chất rắn màu trắng; 04 gói nylon miệng kéo dính, kích thước (10,5 x 7,5)cm chứa tinh thể màu trắng;

Tại kệ vách tường bằng tôn ở hành lang bên hông nhà thu giữ 01 hộp giấy màu tím bên trong có: 01 cân điện tử, 01 kéo bằng kim loại, nhiều gói nylon miệng kéo dính, kích thước (3,0 x 2,0)cm, bên trong không có gì, 01 cân điện tử loại 2000 gam hiệu TANITA.

Tại nóc tủ lạnh bên trong bếp thu giữ: 05 bơm kim tiêm, 01 nỏ thủy tinh, 01 quẹt ga và 01 đầu thu Camera màu đen hiệu “KB VISION”, S: 6A043A8PAZE97XX Nghe tin Đ bị bắt, lúc 18 giờ 10 phút ngày 25/11/2021, L1 đến Công an phường T đầu thú và khai hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra Trần Minh Đ không thành khẩn khai báo, không nhận ma túy thu giữ trên xe ô tô và thu giữ khi khám xét là của Đ. Anh Thị Mỹ L1 chỉ thừa nhận bán ma túy vào ngày 16/11/2021 và ngày 22/11/2021, còn lại L1 không thừa nhận. Tuy nhiên, căn cứ lời khai Đồng Thị Ngọc Y1, Nông Tuấn L2, Nguyễn Thanh T3, Bùi Quang T4, Lê Thanh D, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Xuân M, Hoàng Thị Ú, các biên bản nhận dạng, kết quả xác minh tại Ngân hàng và tài liệu chứng cứ đã thu thập được có tại hồ sơ vụ án đủ căn cứ để chứng minh trong khoảng thời gian từ tháng 6/2021 (không rõ ngày) đến ngày 25/11/2021, Đ và L1 đã nhiều lần (Đức 14 lần, L1 09 lần) bán ma túy cho Y1, L2, T3, T4, D, T2, Ú.

Tại bản Kết luận giám định số 311/2021/GĐ-MT ngày 02/12/2021 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:

Tinh thể màu trắng (ký hiệu M1; M2; M3-1; M4-1) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 132,9623 gam.

Tinh thể màu tráng (ký hiệu M3-1) gửi giám định là Ma túy, loại Methamphetamine và Ketamine, có khối lượng là: 30,4466 gam.

Chất rán màu trắng (ký hiệu M3-2; M4-2) gửi giám định là Ma túy, loại Heroin, có khối lượng là: 51,0913 gam.

Heroin, M1, Ketamine là các chất ma túy thuộc các Danh mục IA, số 9; Danh mục IIC số thứ tự 323 và Danh mục III số thứ tự 35 của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 214,5002 gam (Trong đó: loại Metthaphetanine: 132,9623 gam; loại Methamphetamine và Ketamine: 30,4466 gam; loại Heroin: 51,0913 gam).

Cáo trạng số 50/CTr-VKS-Pl ngày 30/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Trần Minh Đ, Anh Thị Mỹ L1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Minh Đ, Anh Thị Mỹ L1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; các Điều 17, 50, 58, 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Minh Đ 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2021.

Buộc Trần Minh Đ nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 6.750.000 đồng.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; các Điều 17, 50, 58, 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Anh Thị Mỹ L1 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2023.

Truy thu bị cáo Anh Thị Mỹ L1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 4.000.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 18 tháng 5 năm 2023, bị cáo Trần Minh Đ làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bị cáo không có mua bán trái phép chất ma túy, không đưa ma túy cho vợ bị cáo bán. Đề nghị sửa bản án sơ thẩm, giảm mức bồi thường, giảm mức án cho bị cáo.

Ngày 26 tháng 5 năm 2023, bị cáo Anh Thị Mỹ L1 có đơn kháng cáo đối với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 14/6/2023, bị cáo Anh Thị Mỹ L1 có đơn rút lại toàn bộ kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thm:

Bị cáo Trần Minh Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, cho rằng bị cáo chỉ là người sử dụng ma túy chứ không mua bán ma túy. Bị cáo thừa nhận bộ dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ trong xe là của bị cáo mua để sử dụng, còn số ma túy thu giữ trong xe không phải của bị cáo nhưng không biết của ai đã để trong xe của bị cáo. Bị cáo cho rằng xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là oan cho bị cáo. Ngoài ra, tại nhà bị cáo có ma túy bị cáo cho rằng của vợ bị cáo là Anh thị Mỹ L1 tự mua bán với các đối tượng con nghiện, bị cáo không bán và cũng không biết.

Bị cáo Trần Minh Đ còn từ chối luật sư mà Hội đồng xét xử chỉ định để bào chữa cho bị cáo. Bị cáo tự bào chữa bảo vệ quyền lợi cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.

Về nội dung: Xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Minh Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội. Bị cáo không có tình tiết nào mới để giảm nhẹ hình phạt nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức án mà Tòa án cấp sơ đã tuyên. Bị cáo Anh Thị Mỹ L1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng đã rút kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo L1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo:

[1.1] Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18 tháng 5 năm 2023, bị cáo Trần Minh Đ có làm đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo làm và nộp trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[1.2] Ngày 26 tháng 5 năm 2023, bị cáo Anh Thị Mỹ L1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 14/6/2023, bị cáo Anh Thị Mỹ L1 có đơn rút lại toàn bộ kháng cáo. Ngày 21/8/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Thông báo về việc rút kháng cáo số 31/2023/TB-TA theo quy định của pháp luật. Xét thấy việc rút kháng cáo của bị cáo là tự nguyện, không trái pháp luật. Căn cứ Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Anh Thị Mỹ L1.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Minh Đ:

[2.1] Bị cáo Đ không thừa nhận hành vi phạm tội, nhưng căn cứ vào lời khai của bị cáo và bị cáo L1 trong quá trình điều tra, các biên bản kiểm tra hành chính, biên bản bát người phạm tội quả tang, biên bản tiếp nhận người ra đầu thú, lời khai của người làm chứng, vật chứng của vụ án cùng những tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận:

Trần Minh Đ và Anh Thị Mỹ L1 là vợ chồng và sinh sống tại ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước. Khoảng tháng 6/2021, Trần Minh Đ thường xuyên mua ma túy từ Thành phố Hồ Chí Minh về nhà cất giấu, sau đó chia nhỏ thành nhiều gói (tép) để bán cho người khác. Đến tháng 10/2021, L1 biết được việc Đ mua bán ma túy, nên Đ rủ L1 ở nhà bán ma túy cho Đ, thì L1 đồng ý. Từ tháng 6/2021 đến ngày 25/11/2021, Đ bán ma túy cho Nguyễn Như C, Hoàng Thị Ú, Nguyễn Ngọc T2, Đồng Thị Ngọc Y1 và Nguyễn Xuân M tổng cộng 14 lần; từ tháng 10/2021 đến ngày 22/11/2021, L1 bán ma túy cho Nông Tuấn L2, Nguyễn Ngọc T2, Đồng Thị Ngọc Y1, Nguyễn Xuân M và 03 người khác (không rô nhân thân, lai lịch) tổng cộng 09 lần. Tổng số lượng ma túy thu giữ trên xe ô tô 93C-148.14 và tại nhà riêng của Anh Thị Mỹ L1 là 214,5002 gam (trong đó: loại Metthaphetanine: 132,9623 gam; loại Methamphetamine và Ketamine: 30,4466 gam; loại Heroin: 51,0913 gam).

[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo A Thị Mỹ L1 thừa nhận đã cùng bán ma túy với bị cáo Đ nhiều lần như các tài liệu có trong hồ sơ mà cơ quan điều tra chứng minh được. Bị cáo L1 nhận thức được hành vi sai trái, vi phạm pháp luật nên đã đầu thú tại cơ quan Công an và khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.

[2.3] Bị cáo Trần Minh Đ không thừa nhận hành vi phạm tội cho rằng số ma túy thu giữ được trong xe bị cáo cũng như tại nhà bị cáo không phải của bị cáo mua và cũng không biết của ai, vì sao lại có số ma túy này. Cơ quan điều tra đã chứng minh được rằng xe ô tô là của bị cáo và bị cáo quản lý, sử dụng cho đến khi bị bắt quả tang; kết hợp lời khai của vợ bị cáo là bị cáo Anh Thị Mỹ L1; lời khai nhận và nhận dạng của các đối tượng Nguyễn Như C, Hoàng Thị Ú, Nguyễn Ngọc T2, Đồng Thị Ngọc Y1 và Nguyễn Xuân M, Nông Tuấn L2 là những người mua ma túy để sử dụng đã có đầy đủ chứng cứ, vật chứng chứng minh việc Trần Minh Đ có mua bán chất ma túy. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Trần Minh Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Minh Đ theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Minh Đ là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác.

[2.4] Xét kháng cáo của bị cáo Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo với mức án 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là phù hợp với quy định của pháp luật như đã viện dẫn, trong đó bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ và có hai tình tiết tăng nặng được pháp luật quy định tại các điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân xấu, không nhận thấy được hành vi vi phạm pháp luật, không ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; tại phiên tòa còn có thái độ thách thức, bất chấp pháp luật nên cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết gì đặc biệt mới để chứng minh cho yêu cầu của mình nên không có căn cứ chấp nhận. Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí Hình sự phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Minh Đ về việc kêu oan không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Anh Thị Mỹ L1.

Giừ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Minh Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Minh Đ 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 11 năm 2021.

Buộc Trần Minh Đ nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 6.750.000 (sáu triệu bảy trăm năm mươi ngàn) đồng.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Minh Đ chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 773/2023/HS-PT

Số hiệu:773/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về