TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 76/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 53/2024/TLST-HS, ngày 20 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2024/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lê Minh T; Giới tính: Nam; Sinh năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: 36/34/20 Kinh Dương Vương, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Th và bà Phạm Thị N; Bị cáo khai có vợ và 02 người con sinh năm 2013 và năm 2015; Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 05/4/2021 Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định 75/QĐ-TA đưa vào cơ sở chữa bệnh 15 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Nhân thân: Ngày 16/8/2007 Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 146/HSST ngày 16/8/2007. Qua xác minh bị cáo đóng án phí hình sự sơ thẩm ngày 17/10/2007.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2023. (có mặt)
2. Họ và tên: Trần Quan P; Giới tính: Nam; Sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: 110/32/13 Tô Hiệu, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: 43 Phan Anh, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H1 (đã chết) và bà Lý Ngọc T2; Bị cáo có vợ và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2020, nhỏ nhất sinh năm 2022. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2023. (có mặt)
3. Họ và tên: Mai Gia H; Giới tính: Nam; Sinh năm 2000 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi thường trú: 59/20/31 đường Liên Khu 10-11, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 100A Ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai T1 và bà Lưu Thị Kim V; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2023. (có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1971; Nơi cư trú: 85/4 đường Nguyễn Sơn, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
2/ Bà Huỳnh Thị A, sinh năm 2000; Nơi cư trú: 43 Phan Anh, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 50 phút ngày 29/8/2023, Tổ tuần tra 363 Công an huyện Bình Chánh tuần tra trên đường, khi đến trước địa chỉ 113, đường Nguyễn Hữu Trí, Khu phố 5, thị trấn T, huyện B thì phát hiện bị cáo Trần Quan P đang điều khiển xe mô tô biển số 59D1-564.xx chở phía sau bị cáo Mai Gia H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía sau bên phải của H có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu được các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H khai nhận là ma túy tổng hợp (loại đá) do các bị cáo hùn tiền mua về cất giữ mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với các bị cáo.
Qua điều tra xác định bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H mua ma túy của bị cáo Lê Minh T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại nhà không số, Ấp 5, xã T, huyện B thu giữ: 01 túi giấy màu vàng bên trong có 10 gói nylon rỗng; 01 cân điện tử màu trắng xanh đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone cùng 01 sim có số thuê bao 07931540xx nên tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng đồng thời lập biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Tại Bản kết luận giám định số 9544/KL-KTHS ngày 07/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 (một) gói nylon hàn kín thu giữ của các bị cáo qua giám định có khối lượng 1,2069 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 29/8/2023, P có điện thoại rủ H đi mua ma túy về sử dụng (H hùn 400.000 đồng, P hùn 300.000 đồng). Sau đó, P điều khiển xe mô tô biển số 59D1- 564.xx đi đến nhà của H ở Ấp 1, xã T, huyện B để rước H rồi chở H đến điểm bán ma túy gần nhà H, khi đến nơi P đứng chờ bên ngoài còn H vào bấm chuông thì Lê Minh T đi ra lấy tiền rồi đi vào nhà, sau đó lấy 01 gói ma túy ra đưa cho H. Sau đó, P điều khiển xe chở H về nhà của P ở phường Bình Trị Đông để sử dụng ma túy.
Khi đến trước địa chỉ số 113, đường Nguyễn Hữu Trí, Khu phố 5, thị trấn T, huyện B thì bị kiểm tra phát hiện như trên.
Đối với Lê Minh T khai nhận khai nhận phù hợp với Trần Quan P và Mai Gia H. Ngoài ra, T còn cho biết trước đó khoảng 1 tháng nay T đã bán ma túy cho các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H được 03 lần tại nhà không số, Ấp 5, xã T, huyện B (Lần 1: T không nhớ rõ thời gian, bán cho H ma túy với số tiền 400.000 đồng; Lần 2: cách khoảng 1 tuần H và P đến mua 400.000 đồng ma tuy đá; Lần 3: là ngày 29/8/2023 là ngày bị bắt quả tang). Nguồn gốc ma túy mà T có được để bán cho H và P là do mua của một người tên Th (không rõ lai lịch) với số tiền 1.000.000 đồng vào ngày 27/8/2023 tại khu vực chân cầu Chợ Đệm đường Nguyễn Cửu Phú.
Cáo trạng số 69/CT-VKSBC ngày 16/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Lê Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); Truy tố các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, không tranh luận và lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Lê Minh T từ 08 năm đến 09 năm tù. Phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần Quan P từ 02 năm đến 3 năm tù.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Mai Gia H từ 02 năm đến 3 năm tù.
Về vật chứng:
+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy thu giữ còn lại sau giám định; 01 (một) túi giấy màu vàng bên trong có 10 gói nylon rỗng;
+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme cùng sim thu giữ của P; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO thu giữ của H; 01 (một) cân điện tử màu trắng xanh thu giữ của T.
+ Trả lại cho bị cáo Lê Minh T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone cùng 01 sim.
+ Ghi nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh đã trả 01 (một) xe máy biển số 59D-564.xx cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản.
+ Lưu cùng hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình đối với các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:
Vào ngày 29/8/2023, tại trước địa chỉ 113, đường Nguyễn Hữu Trí, khu phố 5, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H có hành vi tàng trữ 1,2069 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận nguồn gốc số ma túy bị thu giữ các bị cáo Trần Quan P và Mai Gia H mua của Lê Minh T vào ngày 29/8/2023 tại nhà không số, ấp 5, xã T, huyện B, tỉnh Long An. Ngoài lần mua bán ma túy này, còn có căn cứ cho thấy trước ngày bị bắt quả tang các bị cáo Trần Quan P và Mai Gia H còn 02 lần mua ma tuý của Lê Minh T tại nhà không số, ấp 5, xã T, huyện B, tỉnh Long An (Lần 1: T bán ma túy cho H với số tiền 400.000 đồng; Lần 2: cách khoảng 1 tuần T bán ma túy cho H và P số tiền 400.000 đồng).
Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bị cáo Lê Minh T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Trong vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có đồng phạm nhưng giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ giữa các bị cáo, trong đó, các bị cáo Trần Quan P, Mai Gia H đều hùn tiền đi mua ma túy để sử dụng chung nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét vai trò đồng phạm của từng bị cáo H và P khi quyết định hình phạt.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để giảm một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu. Riêng bị cáo P có cha là thương binh, được tặng huân chương lao động hạng ba nên còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Riêng bị cáo Lê Minh T có 01 tiền sự bị đưa vào cơ sở chữa bệnh 15 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và có nhân thân bị xử lý hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Lê Minh T.
Ngoài ra, xét thấy cần phạt bổ sung bị cáo Lê Minh T một số tiền để sung vào Ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
[4] Đối với người tên Thanh (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho bị cáo Lê Minh T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh cần tiếp tục xác minh, khi làm rõ xử lý sau.
Đối với 01 (một) xe máy biển số 59D-564.xx, số máy: JC52E4470116, số khung: RLHJC5219CY596987: Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh đã trả cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản nên không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy đối với 01 gói niêm phong dán kín bên ngoài ghi số vụ 1376/23, có chữ ký của bị cáo, bên trong chứa số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định; 01 (một) túi giấy màu vàng bên trong có 10 gói nylon rỗng (Do đây là những vật cấm lưu hành và liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo).
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme cùng sim thu giữ của P; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO thu giữ của H; 01 (một) cân điện tử màu trắng xanh thu giữ của T (Do các bị cáo sử dụng điện thoại này liên hệ rủ nhau mua ma túy sử dụng).
- Trả lại cho bị cáo Lê Minh T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone có số Imei 359272068834409 cùng 01 sim do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
- Bị cáo Lê Minh T khai thu lợi bất chính số tiền 600.000 đồng từ việc bán ma túy và phù hợp với lời khai của H và P nên buộc bị cáo T nộp lại số tiền này để sung Ngân sách Nhà nước.
- Lưu cùng hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình đối với các bị cáo.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Lê Minh T: 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2023.
Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.
2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Trần Quan P: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2023.
3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Mai Gia H: 02 (hai) năm 06 (sáu) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2023 4. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
4.1. Tịch thu tiêu hủy đối với 01 gói niêm phong dán kín bên ngoài ghi số vụ 1376/23, có chữ ký của bị cáo, bên trong chứa số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định; 01 (một) túi giấy màu vàng bên trong có 10 gói nylon rỗng.
4.2. Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme cùng sim thu giữ của P; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO thu giữ của H; 01 (một) cân điện tử màu trắng xanh thu giữ của T.
4.3. Trả lại cho bị cáo Lê Minh T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone có số Imei 359272068834409 cùng 01 sim do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
4.4. Buộc Lê Minh T nộp lại số tiền 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) thu lợi bất chính để tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.
4.5. Lưu cùng hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình đối với các bị cáo (vật này đang lưu theo hồ sơ vụ án).
(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 20/02/2024 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).
5. Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Mỗi bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
6. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 76/2024/HS-ST
Số hiệu: | 76/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về