Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 74/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 29 tháng 8 năm 2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2022/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 12/6/1959 tại thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: tổ 37, khu 10, phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn B (đã chết) và bà Đoàn Thị H (đã chết); có vợ là Hoàng Thị D, sinh năm 1962 và có 02 con, con lớn sinh năm 1981, con nhỏ sinh năm 1984; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1991 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất nổ”. Năm 1992 Tòa án nhân dân Tối cao xét xử phúc thẩm giữ nguyên mức án 03 năm tù đối với Phạm Văn N về tội “Mua bán trái phép chất nổ”; năm 1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Uông Bí. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Anh Lại Văn P, sinh năm 1979; Nơi cư trú: tổ 26, khu 7, phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Vũ Văn H, sinh năm 1990; Nơi cư trú: tổ 1, khu Hiệp An 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ ngày 14/4/2022 tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Uông Bí phối hợp cùng Công an phường Q, thành phố Uông Bí trong khi làm nhiệm vụ tại tổ 32, khu 9, phường Q, thành phố Uông Bí đã phát hiện và bắt quả tang Phạm Văn N có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy mục đích bán kiếm lời. Thu giữ trong chiếc khẩu trang N đang đeo có 01 túi nilon kích thước khoảng (7x9)cm, bên trong có 03 gói giấy nhỏ đều chứa chất bột màu trắng và thu tại nền đường cách chỗ N đứng 20 cm, 01 gói giấy vệ sinh bên trong có 02 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ của N 01 khẩu trang màu đen, 01 xe mô tô nhãn hiệu CPI thân xe có chữ Wave, biển kiểm soát 14F5- 2676 màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng lắp sim số 0326.530.634.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Phạm Văn N khai nhận: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 11/4/2022, Phạm Văn N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu CPI thân xe có chữ Wave biển kiểm soát 14F5-2676 sang huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng mua 700.000 đồng ma túy loại Herione của một người đàn ông không quen biết ở khu vực Núi Đèo, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, N chia số ma túy mua được vào 07 gói giấy nhỏ, đã sử dụng 02 gói. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 14/4/2022, Vũ Văn T gọi điện thoại cho N hỏi mua 02 gói ma túy Heroine và hẹn nhau ở khu vực dốc “Chợ Chiều” ở tổ 32, khu 9, phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 09 giờ cùng ngày, N điều khiển xe mô tô trên mang theo 05 gói ma túy đến điểm hẹn, N bọc 02 gói ma túy vào mẩu giấy vệ sinh đặt dưới nền đường cách chỗ ngồi 20cm để bán cho Tám với giá 240.000 đồng/gói và cất giấu 03 gói ma túy trong khẩu trang đang đeo nếu có khách hỏi mua thì bán. Khi N đang đợi Tám đến để mua bán ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ ma túy cùng các vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số 608/KL-KLHS ngày 19/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng trong 05 gói giấy, trong phong bì niêm phong ghi vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Phạm Văn N là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,286 gam.

Tại Cáo trạng số 73/CT-VKSUB ngày 03/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Văn N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt chính:

Áp dụng: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn N với mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/4/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 608/KLGĐ ngày 19/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong chứa ma túy hoàn lại sau giám định, sim số 0326.530.634 và 01 khẩu trang màu đen.

- Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng thu của bị cáo Phạm Văn N;

- Giao Công an thành phố Uông Bí xử lý theo thẩm quyền 01 xe mô tô nhãn hiệu CPI, thân xe có chữ Wave, biển kiểm soát 14F5-2676, màu sơn xanh, xe cũ đã qua sử dụng (chưa xác định được chủ sở hữu) là phương tiện phạm tội của bị cáo Phạm Văn N.

Bị cáo không tranh luận với quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

[2.1] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người làm chứng và phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ ngày 14/4/2022 tại tổ 32, khu 9, phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 0,286 gam ma túy loại Heroine mục đích bán kiếm lời thì phát hiện, bắt quả tang.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện lỗi cố ý, việc bị cáo chưa giao được ma túy cho người mua là do bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ, nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[2.2] Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự xã hội.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng:

- 01 phong bì niêm phong số 608/KLGĐ ngày 16/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong chứa ma túy hoàn lại sau giám định thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã thu của bị cáo Phạm Văn N xác định là vật chứng bị cáo sử dụng liên lạc để mua bán ma túy nên tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu CPI thân xe có chữ Wave, biển kiểm soát 14F5- 2676 màu sơn xanh, chưa xác định được chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí đã thông báo truy tìm chủ sở hữu, tại thời điểm xét xử mà thời hạn thông báo chưa được 01 năm, cần giao cho Công an thành phố Uông Bí xử lý theo thẩm quyền.

- 01 (một) sim số 0326.530.634; 01 (một) khẩu trang màu đen là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[4] Những tình tiết khác trong vụ án:

Đối với người đàn ông bán ma túy cho N ngày 11/4/2022 không xác định được lai lịch và người đàn ông tên Vũ Văn Tám gọi điện mua ma túy của N ngày 14/4/2022, quá trình điều tra xác minh không có mặt tại địa phương, hiện không biết đi đâu, làm gì nên cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, HĐXX không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn N 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 14/4/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 608/KLGĐ ngày 19/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 (một) sim số 0326.530.634; 01 (một) khẩu trang màu đen.

- Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen;

- Giao Công an thành phố Uông Bí xử lý theo thẩm quyền 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu CPI, thân xe có chữ Wave, biển kiểm soát 14F5-2676 màu sơn xanh, xe cũ đã qua sử dụng.

(Tình trạng, đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng hồi 09 giờ 00 phút ngày 11 tháng 8 năm 2022 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phạm Văn N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về