TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 73/2024/HS-ST NGÀY 18/09/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử công khai trực tiếpvụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2024/TL-HSST ngày 06 tháng 9 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 237/2024/QĐXXST-HS ngày 06/9/2024đốivớibị cáo:
Họ và tên:Nguyễn Hiệp M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1967 tại huyện Ý, tỉnh Nam Định;Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: T, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi ở: Tổ F, khu phố L, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 8/12; Đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông: Nguyễn Hiệp P, đã chết;Con bà: Nguyễn Thị Đ, đã chết;Vợ: Huỳnh Thị K, sinh năm 1965; Nghề nghiêp: Làm ruộng; Con: có 02 con. Con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1997; Vợ, con hiện ở T, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La;
A, chị, em: Có 05 anh, chị, em. Bị cáo là con thứ 5; Tiền sự, tiền án: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/02/2024. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh P. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Quá trình mở rộng điều tra vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 15/11/2003 tại xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọtheo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 63 ngày 17/11/2003 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh P. Ngày 17/5/2004, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh Pđã ra Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Hiệp Mvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định được như sau:
Khoảng tháng 7/2003, Vũ Thị Kim Đ1(là em dâu họ của M), đến nhà Mtại T, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn Lachơi và đặt vấn đề với Mmuốn mua 01 bánh ma túy Heroine để Đ1bán, Mđồng ý và đưa Đ1đến nhà Nguyễn Văn Tở tiểu khu H, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Tại nhà T, Đ1và Tthỏa thuận giá mua bán 01 bánh ma túy Heroine là 4.300 USD, Đ1đưa cho M4.000 USD và dặn T, Mkhi nào mua được ma túy Heroine thì đem về thành phố Ngiao cho Đ1thì Đ1sẽ trả nốt 300 USD, Mvà Tđồng ý. Sau đó, Tcùng Mđi xe máy của Tvào bản L, xã L, huyện M(nay thuộc huyện V), tỉnh Sơn Lagặp Sồng A P1. Thêm là người trực tiếp thỏa thuận với P1về giá 01 bánh Heroine, còn Mkhông biết việc thỏa thuận này. Sau đó Tbảo với Mgiá 01 bánh ma túy Heroine là 4.000 USD, Mđưa cho T4.000 USD. Phá cầm 4.000USD rồi bảo Tvà Mchờ P1đi lấy Heroine. Sau đó, Mvà Tngủ lại nhà P1. Sáng hôm sau, Mthấy Tcầm 01 bánh ma túy Heroine hình hộp chữ nhật được bọc ngoài bằng nilon màu trắng đi ra xe và để bánh Heroine này dưới yên xe máy của Trồi điều khiển xe chở Mđi về nhà T. Khi về đến nhà, Tmở ra kiểm tra thì bánh Heroine này bị vỡ nên Mvà Tcãi nhau nên Mkhông đi cùng Tvề Nam Định để giao bánh ma túy này cho Đ1nữa. Trong khi cãi nhau tại nhà Tthì có Huỳnh Ngọc M1(là anh vợ của M) sinh năm 1963; Nơi thường trú: T, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn Lađến chơi và biết việc. Do M2không đi cùng Tđi Nam Định để đưa bán 01 bánh ma túy Heroine này cho Đ1nên Trủ Mỹ đi cùng Tvề thành phố để giao 01 bánh Heroine này cho Đ1và lấy nốt số tiền còn lại. Sau đó, Tbảo với cầm theo bánh Heroine đi xe khách đến thành phố Ntrước, còn Tđi xe máy của n sau và hẹn gặp nhau ở khu vực cầu V - Nam Định. Cùng ngày hôm đó, Tvà gặp nhau ở điểm hẹn, Tđiều khiển xe máy chở M1cầm bánh Heroine đến nhà anh Đặng Công S - Sinh năm 1967 (là người quen của T), trú tại: xóm D, xã M, huyện M, tỉnh Nam Địnhđể ở nhờ (Tkhông nói cho Sbiết việc Tvà Mỹ có ma túy), sau đó Tgọi điện cho Đ1và hẹn Đ1đi đến nhà anh Sđể giao ma túy và cho Đ1địa chỉ nhà anh S. Khi đến nhà anh S, Tđã giao cho Đ101 bánh Heroine, sau khi nhận bánh Heroine Định khai nhận đem bán cho H(không xác định được địa chỉ cụ thể). Ngày hôm sau, Đ1quay lại nhà anh S, do bánh H1bị vỡ nên Đ1không trả cho Tsố tiền 300USD như thỏa thuận trước đó mà đưa cho Tsố tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Tcầm tiền rồi cùng M1đi về M, sau đó Tcó cho M1số tiền 400.000đ.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T, Vũ Thị Kim Đ1, Huỳnh Ngọc M1khai nhận phù hợp về nội dung tình tiết liên quan đến việc mua bán 01 bánh Heroine này. Sồng A P1không thừa nhận bán ma túy cho T, do M2bỏ trốn nên việc mua bán ma tuý giữa Thêm với P1không đủ căn cứ xử lý đối với Sồng A P1.
Tại Bản án số 76/2005/HSST ngày 27/7/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã xử phạt: HuỳnhNgọcM1: Tù chung thân; NguyễnVănT: 20 năm tù; VũThịKim Đ1: 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Quá trình điều tra, M2bỏ trốn nên ngày 18/5/2004, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Pđã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra và ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Hiệp M.
Ngày 21/02/2024, tại tổ F, khu phố L, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Pđã bắt người đang bị truy nã đối với Nguyễn Hiệp M. Thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hiệp Mtại địa chỉ trên. Quá trình khám xét đã tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim có số thuê bao 0369.387.X.
Quá trình phục hồi giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra đã xác minh và nhiều lần triệu tập đối với VũThịKimĐ1, nhưng Đ1vắng mặt tại địa phương nên không triệu tập làm việc được.
Cơ quan điều tra đã xác minh triệu tập đối với Sồng A P1, sinh năm 1965, Nơi thường trú: Bản L, xã L, huyện M(nay thuộc huyện V), tỉnh Sơn Lanhưng P1đã bị thi hành án tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” năm 2016 trong 1 vụ án khác do Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử.
Cơ quan điều tra đã ghi lời khai đối với Huỳnh Ngọc M1và Nguyễn Văn T. HuỳnhNgọcM1và NguyễnVănTkhai đã tham gia mua bán ma túy 01 bánh ma túy Heroine trên phù hợp với lời khai của Nguyễn Hiệp Mvà phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
* Vật chứng của vụ án gồm:01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim có số thuê bao 0369.387.X.
Tại bản Cáo trạng số:82/CT-VKSPT-P2ngày 06/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đã truy tố các bị cáo Tại phiên tòa,đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọgiữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêuvà đề nghị:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hiệp Mphạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38Bộ luật Hình sự 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiệp M 20 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 21/02/2024.
Về hình phạt bổ sung:Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứĐiều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu chiếc điện thoại di động bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Về án Phí:Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáophải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bịcáo không tranh luậngì.
Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Nhất trí với tội danh, khung hình phạt như quan điểm của Viện kiểm sát. Do bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất dưới khung hình phạt.Về chiếc điện thoại của bị cáo không liên quan đến phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận địnhnhư sau:
[1]Về đánh giá chứng cứ:
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận vào khoảng thời gian một ngày tháng 7/2003, tại nơi ở của Nguyễn Văn Ttại tiểu khu H, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La, Nguyễn Hiệp Mvà Nguyễn Văn Tđã nhận số tiền 4.000USD của Vũ Thị Kim Đ1sau đó cùng nhau đến nhà Sồng A P1để mua được 01 bánh Heroine với giá 4.000USD nhằm kiếm lời số tiền 300USD. Do vậy, Nguyễn Hiệp Mphải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý với khối lượng Heroine là 01 bánh = 350 gam Heroine (tính theo khối lượng trung bình của bánh Heroine theo Bản án số 76/2005/HSST ngày 27/7/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ).Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác đã được xét xử trong Bản án số 76/2005/HSST ngày 27/7/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ. Do bị cáoNguyễn Hiệp Mbị khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, tuy nhiên đến nay Bộ luật hình sự năm 1999 đã được thay thế bằng Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251. So sánh Điều luật quy định về tội Mua bán trái phép chất ma túy của 2 Bộ luật Hình sự này nhận thấy mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với tội của 2 Bộ luật này là như nhau, vì vậy hành vi phạm tội của Nguyễn Hiệp Mđược truy tố theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.Do vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo NguyễnHiệpMphạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự theo như nội dung cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là đúng quy định của pháp luật.
Điều 251 Bộ luật Hình sự: Tội mua bán trái phép chất ma tuý, quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07năm.
2…;
… 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình:
a)… b) Heroine, C, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 100 gam” Đối với Vũ Thị Kim Đ1, Nguyễn Văn T, Huỳnh Ngọc M1là những người mua bán trái phép chất ma tuý cùng Nguyễn Hiệp Mtrong vụ án này đã bị Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử tại Bản án số 76/2005/HSST ngày 27/7/2005.
Đối với Sồng A P1là người đã bán ma tuý cho Tvà M, do P1đã bị Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử và thi hành án tử hình năm 2016.
Đối với những người cho bị cáoM ở nhờ trong thời gian bị cáo bị truy nãnhưng không biết Mphạm tội và bị truy nã nên không xem xét xử lý.
Xét tính chất vụ án:
Hành vi phạm tội của Nguyễn Hiệp Mlà đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm để có tác dụng giáo dụng riêng và phòng ngừa chung.
Về vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sựđối với bị cáo:
Xác định trong vụ án này, bị cáo Mlà người được Vũ Thị Kim Đ1 nhờ mua ma túy hộ, Mđã rủNguyễn Văn T đi mua ma túy, sau đó Tvà Huỳnh Ngọc M1đem ma túy cho Đ1. Do vậy xác định Tcó vai trò chính, Mcó vai trò thứa hai trong vụ án. Tại Bản án số 76/2005/HSST ngày 27/7/2005 ngoài hành vi phạm tội này M1 và Đ1 còn mua bán ma túy với người khác, Tvà Đ1có 02 tình tiết ở khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 2005 nên đã xử phạt chung thân đối với Mỹ, T20 năm tù, Đ117 năm tù. Trong vụ án này sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn gây cản trở việc điều tra, truy tố nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo. Song khi lượng hình xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hìnhsự. Bị cáokhông phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
[2] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, ngoài chiếc điện thoại bị tạm giữ và đồ dùng sinh hoạt thiết yếu bị cáo không có tài sản riêngnên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3]Về vật chứng vụ án: Đối với 01 chiếc điện thoại của bị không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[4]Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo dưới khung hình phạt là không có căn cứ nên không được chấp nhận.Đối với quan điểm của Luật sư đề nghị trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động được chấp nhận Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác của vụ án là tương đối phù hợp nên được chấp nhận.
[5]Cácquyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sátviên thực hiện việc điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đã đảm bảo khách quan đúng quy định của pháp luật. Người bào chữa cho bị cáothực hiện đúng các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hiệp M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiệp M20 (hai mươi)năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 21/02/2024.
Về hình phạt bổ sung:Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng:Căn cứĐiều 47 Bộ luật hình sự;Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại cho bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di độngnhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng đã cũ (mặt trước và mặt sau có xước sát; số IMEI: 353134102720901, kèm theo 01 thẻ sim có số thuê bao0367.387.Xnhưng tạm giữ để đảm báo thi hành án.
(theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an tỉnh Pvới Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ngày 16/9/2024) Về án Phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm akhoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáoNguyễn Hiệp Mphải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[7]Về quyền kháng cáo:Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 73/2024/HS-ST
Số hiệu: | 73/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về