Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 73/2022/HS-PT NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2022/TLPT-HS ngày 17/02/2022 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1172/2022/QĐXXPT-HS ngày 07/3/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,

Đối với bị cáo có kháng cáo :

Trần Lương Đ (tên gọi khác Đ Què); sinh ngày 03/12/1972 tại tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: tổ dân phố 2, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: lớp 11/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông: Trần Văn T (đã chết), con bà: Lương Thị Ngọc Q; vợ: Trương Thị Thu H; con có 02 đứa, con lớn 24 tuổi, con nhỏ 15 tuổi; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 14/11/1989 có hành vi trộm cắp tài sản bị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định đưa đi tập trung cải tạo 02 năm. Ngày 05/3/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Đ1, tỉnh Quảng Bình xử phạt 08 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy (Bản án số 26/2009/HSST ngày 05/3/2009), chấp hành án phạt tù xong ngày 27/02/2014. Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình từ ngày 24/8/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 2 bị cáo là Bùi Văn N và Hoàng Tấn L, nhưng không kháng cáo, bị kháng cáo và kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 20 phút ngày 22/4/2021, tại nhà ở của Hoàng Tấn L ở tổ dân phố 12, phường B, thành phố Đ1, tỉnh Quảng Bình; Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đ1 phối hợp với Công an phường B kiểm tra phát hiện bắt quả tang Bùi Văn N và Hoàng Tấn L có hành vi tàng trữ 01 (một) túi nilon bên trong chứa 43 viên nén hình tròn màu hồng và 01 (một) túi nilon bên trong chứa 08 viên nén hình tròn màu hồng; Bùi Văn N và Hoàng Tấn L khai nhận đó là ma túy hồng phiến N và L cất giấu mục đích bán kiếm lời nên Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ tang vật để điều tra xử lý.

Lúc 08 giờ ngày 22/4/2021, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Tấn L tại tổ dân phố 12, phường B, thành phố Đ1, tỉnh Quảng Bình thu giữ 01 (một) túi nilon bên trong chứa 1.367 viên nén hình tròn màu hồng, 01 túi nilon trên trong chứa 63 viên nén hình tròn màu xanh nhạt và 01 túi nilon bên trong chứa 10 viên nén hình tròn màu xanh đậm.

Tại Kết luận giám định số 630/GĐ-PC09 ngày 29/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận:

- Mẫu ký hiệu A1: 43 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 4,307 gam.

- Mầu ký hiệu A2: 08 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,793 gam.

- Mẫu ký hiệu A3: 1.367 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 138,394 gam.

- Mẫu ký hiệu A4A: 32 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu xanh, trên một mặt mỗi viên có in chữ “A”, mặt còn lại in chữ “Yl”, gửi giám định không phải là chất ma túy, khối lượng 3,044 gam.

- Mẫu ký hiệu A4B: 31 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu xanh, trên một mặt mỗi viên có in chữ “A”, mặt còn lại in chữ “WY”, gửi giám định không phải là chất ma túy, khối lượng 3,098 gam.

- Mẫu ký hiệu A5: 10 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu xanh, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, mặt còn lại in chữ “A”, gửi giám định không phải là chất ma túy, khối lượng 0,881 gam.

Quá trình điều tra xác định:

Bùi Văn N và Hoàng Tấn L quen biết với Trần Lương Đ (cư trú ở tổ dân phố 2, phường B, thành phố Đ1, tỉnh Quảng Bình) từ năm 2019, do đã nhiều lần gặp gỡ và trực tiếp mua ma túy của Đ về sử dụng; nên khoảng 15 giờ ngày 21/4/2021, N sử dụng số điện thoại 0374.306.185 gọi điện cho Đ theo số điện thoại 0845.639.991 để đặt mua 07 gói ma túy hồng phiến (khoảng 1.400 viên), Đ đồng ý bán và hẹn N đến khu vực đường tránh thành phố Đ1 để mua bán ma túy. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, N rủ Hoàng Tấn L cùng đi mua ma túy của Đ về để bán kiếm lời, L đồng ý. N đi xe mô tô chở theo L đến khu vực gần Trạm cân nằm trên đường tránh thành phố Đ1 gặp Đ, tại đây N trả cho Đ số tiền 31.500.000 đồng, Đ giao cho N 01 hộp giấy bên ngoài quấn bằng băng keo màu trắng, bên trong chứa tổng cộng 1.400 viên ma túy hồng phiến. N đưa ma túy vừa mua được cho L cầm, rồi điều khiên xe mô tô chở L mang theo ma túy về tại nhà của Hoàng Tấn L ở tổ dân phố 12, phường B, thành phố Đ1, tỉnh Quảng Bình. Tại nhà của L, N và L mang số ma túy vừa mua từ Đ lấy ra 51 viên ma túy hồng phiến vừa để sử dụng và để chia nhỏ bán kiếm lời, số ma túy còn lại L mang đi cất giấu tại khu vực giếng nước trong nhà, khi đang thực hiện hành vi phạm tội thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, khám xét thu giữ toàn bộ sô ma túy đã cất giấu.

Ngoài ra, từ cuối tháng 11/2020 đến giữa tháng 3/2021, N và L đã 03 lần cùng nhau mua ma túy của Trần Lương Đ để bán và sử dụng tổng số lượng là 1.700 viên ma túy hồng phiến với số tiền là 57.000.000 đồng, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào cuối tháng 11/2020, N sử dụng xe mô tô chở L đến con đường đối diện trạm cân trên đường tránh thành phố Đ1 gặp và mua của Đ 200 viên ma túy hồng phiến (được gói trong túi nilon màu xanh) với giá 6.000.000 đồng.

- Lần thứ hai: Vào đầu tháng 02/2021, N sử dụng xe mô tô chở L đến gần ngôi chùa trên đường tránh thành phố Đ1 gặp và mua của Đ 500 viên ma túy hồng phiến (được gói trong túi nilon) với giá 16.000.000 đồng.

- Lần thứ ba: Vào giữa tháng 3/2021, N sử dụng xe mô tô chở L đến khư vực trên đường tránh thành phố Đ1 gặp và mua của Đ 1.000 viên ma túy hồng phiến (cất giấu trong vỏ hộp kẹo silicon) với giá 25.000.000 đồng.

Những lần mua bán ma túy giữa Bùi Văn N và Hoàng Tấn L với Trần Lương Đ; N và Đ trực tiếp liên lạc thỏa thuận số lượng ma túy, số tiền mỗi lần giao dịch, tiền mua ma túy là của N; L chỉ đi theo N và cùng N mua ma túy về để sử dụng và bán cho người cần mua. Số tiền có được từ việc bán ma túy, N chia cho L một phần, phần còn lại cả hai sử dụng tiêu xài cá nhân.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2022/HSST ngày 12/01/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Lương Đ, Bùi Văn N và Hoàng Tấn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 2 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Phạt bị cáo Trần Lương Đ 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 24/8/2021 …vv Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/01/2022, bị cáo Trần Lương Đ có Đơn kháng cáo cho rằng mức hình phạt 20 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là nặng, đề nghị cấp phúc thẩm xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Lương Đ giữ nguyên kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Thẩm phán, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Đ 20 năm tù là không nặng, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Trần Lương Đ bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình nên theo quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án phải chỉ định người bào chữa. Tuy nhiên, khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Đ có đơn từ chối Luật sư mà tự bào chữa nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử bị cáo theo thủ tục phúc thẩm mà không có người bào chữa.

[2] Về tội danh, khung hình phạt: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Đ thừa nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã kết luận là từ cuối tháng 11/2020 đến ngày 21/4/2021 bị cáo Đ đã 4 lần bán ma túy cho Bùi Văn N và Hoàng Tấn L, trong đó lần thứ tư vào ngày 21/4/2021 Đ bán cho N và L 1.418 viên ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 143,494 gam; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Trần Lương Đ phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 khoản 4 điểm b Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt.

[3] Về quyết định hình phạt:

Bị cáo Đ đã thành niên, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên nhận thức và biết được các chất ma túy Amphetamine, Ketamine, MDMA là loại chất gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng Nhà nước độc quyền quản lý nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe người dân và ngăn ngừa các loại tội phạm; nhận thức được tác hại của ma túy là ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, suy thoái giống nòi là nguyên nhân gốc gây ra nhiều loại tội phạm trong xã hội, làm mất an ninh trật tự, nhưng cố tình mua bán ma túy trái phép.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét bị cáo Đ tại phiên tòa sơ thẩm thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (mặc dù trước đó trong quá trình điều tra, truy tố không khai nhận hành vi phạm tội) nên đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; bị cáo Đ bán ma túy 4 lần nên phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nên xử phạt bị cáo Đ 20 năm tù là không nặng. Bị cáo Đ kháng cáo, nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để cấp phúc thẩm xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo nên giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo. Bị cáo Đ kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm (mức hình phạt đối với bị cáo Bùi Văn N, Hoàng Tấn L…vv) không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Lương Đ, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với bị cáo Trần Lương Đ, cụ thể:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 2 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần Lương Đ 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/8/2021.

Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Trần Lương Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

423
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-PT

Số hiệu:73/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về