TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 72/2023/HS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2023/QDXXST-HS ngày 06/9/2023 đối với các bị cáo:
1/ Họ và tên: Quàng Văn H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;
Sinh ngày 10/02/2004;Tại: huyện T, tỉnh Lai Châu;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Lào; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông: Quàng Văn H1, sinh năm 1975; con bà: Lò Thị K, sinh năm 1976; Gia đình bị cáo có 05 chị, em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án; tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ hồi 14 giờ 00 phút ngày 24/5/2023 đến 14 giờ 00 phút ngày 30/5/2023 bị áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay “có mặt”.
2/ Họ và tên: Quàng Văn H1; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;
Sinh ngày: 21/7/1975; Tại: huyện T, tỉnh Lai Châu;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Lào; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 1/12; Nghề nghiệp: Làm mộng; con ông: Quàng Văn L, sinh năm 1954; con bà: Lò Thị B, sinh năm 1959; có vợ là: Lò Thị K, sinh năm 1976 (đã ly hôn) và 05 con (con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2010); gia đình bị cáo có 08 anh, em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án: Tại bản án số 03/2020/HS-ST, ngày 17/11/2020, Quàng Văn H1 bị Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 19/12/2021 Quàng Văn H1 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Đến ngày 24/5/2023 bị cáo Quàng Văn H1 chưa được xóa án tích; tiền sự: Không.
Về nhân thân: Tại Bản án số 03/2007/HSST ngày 07/11/2006, Quàng Văn H1 bị Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu áp dụng khoản 1, 5 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Bản án số 20/2008/HSST ngày 24/7/2008, Quàng Văn H1 bị Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và đã thi hành khoản án phí, biện pháp tư pháp. Hiện bị cáo Quàng Văn H1 đã được xóa án tích đối với 02 bản án trên.
Bị cáo bị tạm giữ từ hồi 14 giờ 00 phút ngày 24/5/2023 đến 14 giờ 00 phút ngày 30/5/2023 bị áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay “có mặt”.
Người làm chứng:
1/ Vàng Văn C: Sinh ngày: 06/8/2000 - Trú tại: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu “vắng mặt tại phiên tòa không có lý do”.
2/ Nguyễn Văn T: Sinh ngày: 03/6/1992 - Trú tại: Bản C, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu “vắng mặt tại phiên tòa không có lý do”.
Người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1:
Ông Nguyễn Xuân O: Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh L “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào ngày 20/5/2023, Quàng Văn H (sinh ngày 10/02/2004) trú tại bản Nà Can, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu một mình đi xuống huyện T, tỉnh Lai Châu, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Tại huyện T, H mua được của một người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói Heroine (được gói bằng mảnh nilon màu xanh) với giá 400.000 đồng. Mua được H2, H mang về nhà lấy một ít sử dụng, số Heroine còn lại H chia thành 06 gói nhỏ, mỗi gói được gói bằng nilon màu hồng hơ túm một đầu (trong đó có 01 gói Heroine bên trong có 02 gói Heroine nhỏ đều được gói bằng nilon màu hồng).
Khoảng 11 giờ ngày 24/5/2023, Quàng Văn H1 (sinh ngày 21/7/1975) trú tại bản Nà Can, xã B, huyện T đang ở nhà thì có Vàng Văn C, sinh năm 2000 trú tại bản Phiêng cẩm, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu cùng Nguyễn Văn T, sinh năm 1992 trú tại bản Chom Chăng, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu đến nhờ H1 mua hộ 200.000 đồng ma túy để sử dụng, H1 đồng ý cầm tiền Chiến, T đưa và H1 góp thêm 100.000 đồng đi đến nhà Quàng Văn H (con trai H1), H1 đứng ở cửa gọi “H ơi có không bán cho bố 300.000 đồng” rồi đưa 300.000 đồng qua khe cửa xếp nhà H, H nhận tiền cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi đưa cho H1 01 gói Heroine gói bằng nilon màu hồng, bên trong có 03 gói Heroine mỗi gói được gói bằng nilon màu hồng, trong đó có 01 gói Heroine bên trong có 02 gói Heroine nhỏ đều được gói bằng nilon màu hồng. Mua được H2, H1 mang về nhà đưa cho C 02 gói Heroine, 01 gói Heroine bên trong có 02 gói Heroine nhỏ H1 cất giấu vào túi quần phía sau bên trái đang mặc (do H1 góp 100.000 đồng mua để sử dụng), đưa H2 cho C xong H1 đi ra sân nhặt rau, còn C đưa cho T 01 gói Heroine rồi cả hai cùng nhau sử dụng hết số Heroine vừa nhờ H1 mua hộ bằng hình thức hít tại phòng khách nhà H1 (C, T không hỏi ý kiến H1 và H1 không biết việc C và T sử dụng Heroine trong nhà mình). Hồi 11 giờ 30 phút ngày 24/5/2023, tại bản N, xã B, huyện T, khi Quàng Văn H1 đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thì bị Phòng PC04 Công an tỉnh L phát hiện, bắt quả tang, vật chứng thu giữ của H1 là 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu hồng, bên trong có 02 gói Heroine nhỏ (Hặc để sử dụng), vật chứng thu giữ của Vàng Văn C, Nguyễn Văn T là 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 01 bật lửa gas màu đỏ đã qua sử dụng (C và T dùng để sử dụng ma túy). Phòng PC04 Công an tỉnh L đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Quàng Văn H1 về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và niêm phong vật chứng theo quy định. Căn cứ lời khai của Quàng Văn H1, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở của Quàng Văn H, vật chứng thu giữ là số tiền 300.000 đồng (02 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng) do H bán H2 cho H1 mà có, 03 gói Heroine mỗi gói được gói bằng nilon màu hồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Quàng Văn H về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định 603 ngày 24/5/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận khối lượng Heroine thu giữ của Quàng Văn H1: số chất bột màu trắng gửi giám định có tổng khối lượng là 0,11 gam. Tại bản kết luận giám định số 604 ngày 26/5/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (H).
Tại bản kết luận giám định 605 ngày 24/5/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận khối lượng Heroine thu giữ của Quàng Văn H: số chất bột màu trắng gửi giám định có tổng khối lượng là 0,05 gam. Tại bản kết luận giám định số 606 ngày 26/5/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (H).
Về vật chứng của vụ án:
Đối với số tiền thu giữ của Quàng Văn H, tại bản Kết luận giám định số 607 ngày 28/5/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: 02 (Hai) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) có mã số hiệu lần lượt là: RJ 10838888; BR 21909734 và 02 (Hai) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) có mã số hiệu lần lượt là: PF 20038790; HM 14566120 gửi giám định là tiền thật.
Đối với 0,11 gam Heroine thu giữ của Quàng Văn H1 và 0,05 gam Heroine thu giữ của Quàng Văn H, Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ giám định chất ma túy, không hoàn lại mẫu vật.
Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H1; 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H); 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy; 01 bật lửa gas màu đỏ đã qua sử dụng thu giữ của Vàng Văn C và Nguyễn Văn T, hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đường. Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ của Quàng Văn H, hiện đang tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện T.
Về trách nhiệm dân sự: Không.
Bản cáo trạng số 69/CT-VKSTĐ, ngày 05/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường truy tố các bị cáo Quàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Quàng Văn H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện T đánh giá như sau: Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Quàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Quàng Văn H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Quàng Văn H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251 đối với bị cáo Quàng Văn H; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 đối với bị cáo Quàng Văn H1; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt bị cáo Quàng Văn H từ 28 tháng đến 34 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2023. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Quàng Văn H1 từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2023. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilon màu trắng đựng 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H1); 01 túi nilon màu trắng đựng 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H); 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy; 01 bật lửa gas màu đỏ đã qua sử dụng.
Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Quàng Văn H.
Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 đã phân tích đánh giá các tình tiết của vụ án, hành vi, động cơ mục đích phạm tội của các bị cáo, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhất thời phạm tội; hiểu biết về pháp luật. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251 đối với bị cáo H và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 đối với bị cáo H1; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo. Đề nghị cho các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện Kiểm sát; Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo vì các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
Đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Đối với đề nghị của người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn H1, Quàng Văn H được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phù hợp với đề nghị của Viện kiểm sát nên đề nghị HĐXX xem xét, cân nhắc để ra bản án đúng người, đúng tội và đúng theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 nhất trí với bản luận tội và không có tranh luận gì với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát.
Tại lời nói sau cùng các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của các bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng 11 giờ ngày 24/5/2023, tại bản Nà Can, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu, Quàng Văn H đã có hành vi bán trái phép 03 gói Heroine với giá 300.000 đồng cho Quàng Văn H1, sau đó H1 bị Phòng PC04 Công an tỉnh L bắt quả tang, vật chứng thu giữ của H1 là 01 gói Heroine có khối lượng 0,11 gam. Căn cứ lời khai của Quàng Văn H1, Công an tỉnh L tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Quàng Văn H thu giữ 03 gói Heroine có tổng khối lượng 0,05 gam và số tiền 300.000 đồng do H bán H2 cho H1 mà có.
Quàng Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự về 0,11 gam Heroine bán cho Quàng Văn H1 và 0,05 gam Heroine tàng trữ để bán kiếm lời, tổng là 0,16 gam Heroine. Quàng Văn H1 phải chịu trách nhiệm hình sự về 0,11 gam Heroine tàng trữ để sử dụng. Các bị cáo Quàng Văn H1 và Quàng Văn H là những người có năng lực trách nhiệm hình sự.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện chất ma túy nên đã thúc đẩy các bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo H đã đi tìm mua ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời, bị cáo đã chia số ma túy mua được thành nhiều gói nhỏ và đã bán cho bị cáo H1 03 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Bị cáo H1 khi có người nhờ mua hộ ma túy đã góp thêm tiền vào để đi mua ma túy về với mục đích sử dụng. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Hành vi của bị cáo Quàng Văn H thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; Hành vi của bị cáo Quàng Văn H1 thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Quàng Văn H không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị can Quàng Văn H1 phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, đó là: “Tái phạm”.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Quàng Văn H khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.
Đối với Vàng Văn C, Nguyễn Văn T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi của C, T là hành vi vi phạm hành chính. Do đó, Công an tỉnh L ra quyết định xử phạt hành chính đối với Vàng Văn C, Nguyễn Văn T là đúng quy định.
Đối với Vàng Văn C, Nguyễn Văn T sử dụng Heroine trong nhà Quàng Văn H1. Quá trình điều tra xác định, trước khi sử dụng H2, C và T không hỏi ý kiến H1 và H1 không biết. Do đó, Quàng Văn H1 không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Quá trình điều tra Vàng Văn C, Nguyễn Văn T khai mỗi người góp số tiền 100.000 đồng để mua Heroine, tuy nhiên khi mua Heroine của H, H1 là người trao đổi mua bán Heroine với H và H không biết số Heroine đó là H1 mua hộ cho C và T. Do đó, Quàng Văn H không phải chịu tình tiết định khung tăng nặng “Đối với 02 người trở lên” theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Đối với hành vi của Quàng Văn H1 mua trái phép 02 gói Heroine của Quàng Văn H cho Vàng Văn C và Nguyễn Văn T để sử dụng, không nhằm mục đích hưởng lợi và không có vai trò giúp sức cho Quàng Văn H thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy, Quàng Văn H1 không đồng phạm với Quàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo nên có căn cứ để chấp nhận.
[3] Vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Đối với 0,16 gam (Không phẩy mười sáu gam) Heroine thu giữ của Quàng Văn H1 và Quàng Văn H đã gửi toàn bộ đi giám định (không hoàn lại mẫu vật) nên hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với: 01 túi nilon màu trắng đựng 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H1); 01 túi nilon màu trắng đựng 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H); 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy; 01 bật lửa gas màu đỏ đã sử dụng, cũ. Đây là công cụ các bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội và vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với: Số tiền 300.000 đồng thu giữ của Quàng Văn H là tiền do bị cáo thực hiện phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản gì đáng giá nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.
[5] Án phí:
Áp dụng điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Quàng Văn H; điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với Quàng Văn H1; Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh:
- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Quàng Văn H 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Xử phạt bị cáo Quàng Văn H1 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về vật chứng của vụ án:
Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilon màu trắng đựng 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H1); 01 túi nilon màu trắng đựng 03 mảnh nilon màu hồng (còn lại sau khi mở niêm phong xác định khối lượng thu giữ của Quàng Văn H); 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy; 01 bật lửa gas màu đỏ đã sử dụng, cũ.
Tịch thu sung quỹ nhà nước: Số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo Quàng Văn H.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 05 tháng 9 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).
4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1.
5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Quàng Văn H, Quàng Văn H1 được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 72/2023/HS-ST
Số hiệu: | 72/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về