TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K - TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã K và điểm cầu T2 phần tại Cơ sở tạm giữ, Công an thị xã K xét xử trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 80/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Tô Văn T, sinh năm 1965. Tên gọi khác: Không; ĐKHKTT: KDC T3, phường T1, thị xã K, Hải Dương; Chỗ ở: KDC H1, phường H, thị xã K, Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tô Văn M và bà Lê Thị L; Có vợ Phạm Thị L1 (đã chết) và có 02 con, con lớn sinh năm 1986, con nhỏ sinh năm 1990. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 16/4/2021, Tô Văn T bị UBND phường H áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn theo Quyết định số 59/QĐ-UBND ngày 16/4/2021, thời gian áp dụng từ ngày 16/4/2021 đến ngày 16/8/2021 về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 16/8/2021, Tô Văn T đã chấp hành xong.
Nhân thân: Ngày 30/01/2002, Công an huyện K (nay là Công an thị xã K) ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 39 về hành vi Đánh bạc. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 31/01/2002; Tại Bản án số 41/2005/HSST ngày 08/3/2005, của Toà án nhân dân quận L3 - TP. Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 04/7/2005, chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án. Ngày 14/12/2006, T chấp hành xong hình phạt tù; Ngày 06/11/2007, Công an tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 62 về hành vi Đánh bạc. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 30/01/2002; Ngày 16/02/2012, Công an huyện K (nay là Công an thị xã K) ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44 về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. T chấp hành xong khoản tiền phạt ngày 16/02/2012; Bản án số 06/2014/HSST ngày 18/02/2014 của Toà án nhân dân huyện K (này là TAND thị xã K) xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 26/12/2016, T chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 27/6/2014, chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án; Bản án số 111/2018/HSST ngày 06/11/2018 của Toà án nhân dân huyện K (này là TAND thị xã K) xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 12/01/2020, T chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 14/12/2018, chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/4/2022, chuyển tạm giam từ ngày 28/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.
Người chứng kiến: Ông Phùng Ngọc T2. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 22/4/2022, Tô Văn T đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết đến khu vực quán Toan, T2 phố Hải Phòng để mua ma túy loại Heroine về sử dụng và bán kiếm lời. Tại đây, T gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ hỏi và mua được 01 túi ma túy có đặc điểm là 01 túi nilon bên trong có 13 gói giấy bạc màu trắng bên trong mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng với giá 2.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu trong người rồi đi xe ôm về nhà. Khoảng 20 giờ ngày 25/4/2022, T cầm theo số ma túy trên đi bộ từ nhà ra khu vực cổng số 3 Công ty Cổ phần thép Hòa Phát thuộc Hiệp Thượng, H, K, Hải Dương mục đích để ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Đến khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, T bán cho Nguyễn Minh Hiếu - sinh năm 1996, trú tại:
Khu 2 - phường Phú Thứ - thị xã K - tỉnh Hải Dương 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Khi vừa bán ma túy cho Hiếu xong thì bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã K phát hiện bắt quả tang. Thu giữ vật chứng gồm: thu tại lòng bàn tay phải của Hiếu 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chất bột dạng cục màu trắng (được niêm phong ký hiệu M1); thu giữ trong túi quần phía trước bên phải T đang mặc số tiền 200.000 đồng (gồm 01 tờ tiền polime mệnh giá 100.000 đồng, 02 tờ tiền polime mệnh giá 50.000 đồng); thu giữ tại lòng bàn tay trái của T 01 túi nilon bên trong có 12 gói giấy bạc màu trắng bên trong mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (được niêm phong ký hiệu M2). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.
Tại Kết luận giám định số 341/KL-KTHS ngày 28/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng trong gói giấy bạc được niêm phong ký hiệu M1, ghi thu của Nguyễn Minh Hiếu gửi đến giám định có khối lượng là 0,036g (không phẩy không trăm ba mười sáu gam) là ma túy loại Heroine; Chất bột dạng cục màu trắng trong 12 gói giấy bạc được niêm phong trong phong bì kí hiệu M2, ghi thu của Tô Văn T gửi đến giám định có tổng khối lượng là 1,223g (một phẩy hai trăm hai mươi ba gam) là ma túy loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 01 mảnh giấy bạc và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M1, 1,152g (một phẩy một trăm năm mươi hai gam) ma túy loại Heroine, 12 mảnh giấy bạc và 1 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M2.
Quá trình điều tra Tô Văn T đã T2 khẩn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, cùng các tài liệu liên quan đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Tại cáo trạng số 76/CT-VKSKM ngày 08/8/2022, VKSND thị xã K truy tố bị cáo Tô Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Tô Văn T vẫn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Vị đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Bị cáo Tô Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Tô Văn T từ 39 tháng đến 42 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 25/4/2022.Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
Ngoài ra quan điểm đại diện VKS còn đề nghị HĐXX xem xét, giải quyết về vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã K, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Tô Văn T vẫn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, cùng các tài liệu liên quan đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 20 giờ 15 phút ngày 25/4/2022, tại khu vực cổng số 3 Công ty Cổ phần thép Hòa Phát thuộc KDC Hiệp Thượng, phường H, thị xã K, tỉnh Hải Dương, Tô Văn T có hành vi bán trái phép 0,036g (không phẩy không trăm ba mười sáu gam) là ma túy loại Heroine cho Nguyễn Minh Hiếu được số tiền 200.000 đồng. Đồng thời có hành vi cất giấu 1,223g (một phẩy hai trăm hai mươi ba gam) là ma túy loại Heroine trong lòng bàn tay trái mục đích để sử dụng và để bán thì bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã K phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Do vậy, VKSND thị xã K truy tố bị cáo Tô Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước ta về các chất ma tuý – loại độc dược gây nghiện; Xâm phạm trật tự an toàn xã hội nói chung và tại địa phương phường H nói riêng. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án thì thấy: Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: không. Về nhân thân: Bị cáo Tô Văn T thuộc đối tượng nghiện ma túy. Ngày 16/4/2021, Tô Văn T bị UBND phường H áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn theo Quyết định số 59/QĐ-UBND ngày 16/4/2021 ngày 16/4/2021 đến ngày 16/8/2021 về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dục tại xã, phường Tô Văn T không lấy đó là cơ hội rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, không những vậy T còn có nhân thân rất xấu, nhiều lần T đã bị các Tòa án xử phạt về tội tàng trữ trái phép chất ma túy được thể hiện tại các Bản án số 41/2005/HSST ngày 08/3/2005 của TAND Quận L3, Hải Phòng; Bản án số 06/2014/HSST ngày 18/02/2014, Bản án số 111/2018/HSST ngày 26/12/2016 của TAND huyện K (nay là TAND thị xã K); Bị Công an huyện K (nay là Công an thị xã K) ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc và tàng trữ trái phép chất ma túy được thể hiện tại các Quyết định số 39 ngày 30/01/2002; số 44 ngày 16/02/2012; Bị Công an tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc số 62 ngày 06/11/2007. Nên cần có một mức án nghiêm khắc phù hợp với hành vi và hậu quả của bị cáo gây ra mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Song cũng nên xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã T2 khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân huy chương kháng chiến. Nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội T2 khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 BLHS “gia đình bị cáo là người có công với nước” để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là phù hợp. Song xét tính chất, mức độ, nhân thân, quá trình thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, nên dù có xem xét, chiếu cố cũng cần buộc bị cáo cách ly xã hội trong thời gian nhất định mới đủ đảm bảo tính giáo dục, cải tạo đối với bị cáo trở T2 người công dân có ích cho xã hội.
[5]Trong vụ án này, đối với Nguyễn Minh Hiếu có hành vi tàng trữ 0,036g ma túy loại Heroine, quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn, qua xác minh tại phường Phú Thứ - thị xã K xác định không có người nào có họ tên, lý lịch như trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau. Đối với người đàn ông bán chất ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại điều luật có quy định song xét bị cáo lao động tự do không có nghề nghiệp, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ quản lý số tiền 200.000 đồng và mẫu vật được hoàn lại sau giám định được niêm phong. Xét mẫu vật được hoàn lại sau giám định thuộc vật Nhà nước cấm lưu hành, cùng vỏ bao gói mẫu cần tịch thu cho hủy bỏ là phù hợp. Đối với số tiền 200.000 đồng là nguồn tiền do bị cáo thu lời bất chính mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[8] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 46, điểm b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án.
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tô Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tô Văn T 41 tháng tù, thời hạn được tính kể từ ngày tạm giữ 25/4/2022.
Về biện pháp tư pháp: Tuyên tịch thu tuyên hủy số ma túy cùng vỏ bao gói mẫu có trong phong bì ghi số 341/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương. Tuyên tịch thu số tiền 200.000 đồng sung quỹ Nhà nước. (Được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/9/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã K).
Về án phí: Buộc bị cáo Tô Văn T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Tòa án báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST
Số hiệu: | 72/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về