TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 28/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 83/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 244/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn G, sinh năm: 1991 tại Bình Định; nơi cư trú: X, phường Y, thành phố Z, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; con ông: P, sinh năm 1970 và bà Q, sinh năm 1970; vợ: R, sinh năm 1993, con: 03 con, nhỏ nhất sinh năm 2015, lớn nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/10/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 07 tháng tù; bị bắt giam ngày 09/5/2022, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Chí H, sinh năm: 1999 tại Bình Định; nơi cư trú: M, phường N, thành phố Z, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: không xác định và bà N, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Ngày 13/5/2021 bị Phòng CSĐT tội phạm ma túy Công an tỉnh Bình Định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 07/7/2021 bị Công an phường H xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị bắt giam ngày 09/5/2022, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ NLQ1, sinh năm: 1990. Cư trú tại: X, p. I, Tp. Z, tỉnh Bình Định. (vắng mặt)
2/ NLQ2, sinh năm: 2001. Cư trú tại: Chung cư M, Tp. T. (vắng mặt)
3/ NLQ3, sinh năm: 1999. Cư trú tại: X, p. Y, Tp. Z, tỉnh Bình Định. (vắng mặt).
4/ NLQ4, sinh năm: 2002. Cư trú tại: X, p. K, Tp. Z, tỉnh Bình Định. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h10’ ngày 03/3/2022 tổ công tác thuộc Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Định phát hiện Nguyễn Văn G có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy nên đã mời về Cơ quan Công an làm việc. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp tại số nhà X nơi G cư trú phát hiện tạm giữ 73 viên nén màu hồng; 10 bì nilông kích thước (4x6) cm.
G khai nhận: Trong tháng 5/2021, G mua ma túy 01 hộp 10 ma túy Ketamine và 20 viên thuốc lắc (MDMA), với giá 8.000.000đ/hộp 10 ma túy Ketamine và 250.000đ/viên thuốc lắc (MDMA), tổng cộng 13.000.000đ của một người nam tên X’ (không rõ lai lịch). Sau khi nhận ma túy, G đã 04 lần giao ma túy cho NLQ4 mang đi bán cho người nữ tên Y’ và người nam tên Z’ (đều không rõ lai lịch) với số lượng 02 hộp 5 ma túy Ketamine, 02 nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 16 viên thuốc lắc (MDMA) thu 16.800.000đ, trả công cho Tuấn 800.000đ. Cụ thể các lần bán nói trên là:
- Khoảng cuối tháng 5/2021, bán cho Y’ 02 lần với số lượng 02 nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 06 viên thuốc lắc (MDMA) thu 5.800.000đ.
- Khoảng đầu tháng 6/2021, bán cho Z’ 02 lần với số lượng 02 hộp 5 ma túy Ketamine và 10 viên thuốc lắc (MDMA) thu 11.000.000đ.
Trong tháng 11/2021, G mua 120 viên thuốc lắc (MDMA) với giá 100.000đ/viên, tổng cộng 12.000.000đ. Sau khi có ma túy, G trực tiếp mang đi bán cho nhiều đối tượng không rõ lai lịch với giá 300.000đ/viên (hưởng lợi 200.000đ/viên). Tuy nhiên, sau khi bán được 30 viên thuốc lắc (MDMA) thu 9.000.000đ thì người mua ma túy phản ánh với G là thuốc lắc sử dụng không lên, sau đó G phát hiện ma túy giả nên không bán nữa. Đến tết nguyên đán 2022, G lấy số thuốc lắc giả ra bán được 16 viên thu 4.800.000đ, còn lại 73 viên thuốc lắc (MDMA) G cất giấu thì bị thu giữ.
Trong tháng 02/2022, G tiếp tục mua 02 hộp 10 ma túy Ketamine và 40 viên thuốc lắc (MDMA) với giá 26.000.000đ. Số ma túy mua được G chia nhỏ, trực tiếp mang đi bán 02 lần và 05 lần giao cho Nguyễn Chí H mang đi bán với tổng số lượng:
02 hộp 5 ma túy Ketamine, 06 nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 19 viên thuốc lắc (MDMA) thu 27.100.000đ, hưởng lợi 11.550.000, trả công cho H 200.000đ/lần giao, tổng cộng 1.000.000đ, cụ thể các lần bán như sau:
- Nguyễn Chí H bán cho NLQ1 03 lần, NLQ2 01 lần, NLQ3 01 lần :
+ Ngày 15/02/2022, H bán nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 05 viên thuốc lắc (MDMA) thu 3.700.000đ cho NLQ1, giao tại trước N.
+ Lần 2: Ngày 20/02/2022, H bán nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 02 viên thuốc lắc (MDMA) thu 2.700.000đ cho NLQ1, giao tại trước N.
+ Lần 3: Ngày 27/02/2022, H bán nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 04 viên thuốc lắc (MDMA) thu 3.200.000đ, cho NLQ1 giao tại trước chung cư L đường X.
+ Lần 1: Khoảng ngày 08/02/2022, H bán nửa hộp 5 ma túy Ketamine thu 1.800.000đ, H là người giao ma túy cho NLQ2 tại trước S.
+ Ngày 25/02/2022, H Bán cho NLQ3 nửa hộp 5 ma túy Ketamine thu 2.000.000đ, đường P trước khách sạn Si.
- Nguyễn Văn G bán cho NLQ1 01 lần, cho NLQ2 01 lần:
+ Ngày 03/3/2022, G bán 01 hộp 5 ma túy Ketamine với giá 5.000.000đ, cho NLQ1 tại trước chung cư L đường X, thành phố Z. Sau đó, NLQ1 sử dụng tài khoản 005100056422x của Ngân hàng Vietcombank mang tên NLQ1 chuyển 5.000.000đ vào tài khoản 10232708xx của Ngân hàng Vietcombank do G đứng tên chủ tài khoản với mã giao dịch 507862575.
+ Khoảng giữa tháng 02/2022 G bán 01 hộp 5 ma túy Ketamine, nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 08 viên thuốc lắc (MDMA) thu 8.700.000đ, cho NLQ2 tại trước S.
Ngày 07/3/2022 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: 73 viên nén màu hồng đựng bên trong 01 (một) bì ni lông hàn kín bốn góc gửi giám định đều không tìm thấy thành phần các chất ma túy, có tổng khối lượng 30,1073 gam.
Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKS-P1 ngày 13/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố Nguyễn Văn G, Nguyễn Chí H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 251 BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định luận tội và đề nghị: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G từ 09 đến 10 năm tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Chí H từ 07 đến 08 năm tù.
Về vật chứng:
- 01 (một) phong bì số 73/KL-PC09 bên ngoài có ghi: Hoàn lại đối tượng giám định: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 27,8698 gam mẫu A còn lại sau giám định. Có đóng dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định.
Tịch thu:
- 02 (hai) điện thoại gồm: 01 (một) điện thoại màu vàng có ghi chữ Nokia 6300; 01 (một) điện thoại màu tím có ghi chữ Iphone thu giữ của Nguyễn Văn G.
- 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có hình trái táo và dòng chữ Iphone thu giữ của Nguyễn Chí H.
Trả lại điện thoại cho NLQ4:
- 01 (một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau có ghi chữ Iphone thu giữ của NLQ4.
- Tịch thu tiền thu lợi bất chính.
Các bị cáo không bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ nên có đủ cơ sở xác định:
Bị cáo Nguyễn Văn G đã có hành vi mua ma túy về để sử dụng và bán lại. Bị cáo G đã mua 02 hộp 10 ma túy Ketamine và 40 viên thuốc lắc (MDMA) với giá 26.000.000đ, G trực tiếp mang đi bán 02 lần và giao cho Nguyễn Chí H mang đi bán 05 lần với tổng số lượng: 02 hộp 5 ma túy Ketamine, 06 nửa hộp 5 ma túy Ketamine và 19 viên thuốc lắc (MDMA) thu 27.100.000đ, hưởng lợi 11.550.000, trả công cho H 200.000đ/lần giao, tổng cộng 1.000.000đ. Do đó, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn G, Nguyễn Chí H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn G, Nguyễn Chí H là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, nên cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Xét vai trò của các bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn G là người chủ mưu, cầm đầu; trực tiếp mua bán ma túy. Bị cáo Nguyễn Chí H giúp sức tích cực cho bị cáo G. Do đó vai trò của bị cáo G cao hơn so với bị cáo H.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo H có 02 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
01 (một) phong bì số 73/KL-PC09 bên ngoài có ghi: Hoàn lại đối tượng giám định: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; 27,8698 gam mẫu A còn lại sau giám định. Có đóng dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định.
Tịch thu sung công:
- 02 (hai) điện thoại gồm: 01 (một) điện thoại màu vàng có ghi chữ Nokia 6300; 01 (một) điện thoại màu tím có ghi chữ Iphone thu giữ của Nguyễn Văn G.
- 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có hình trái táo và dòng chữ Iphone thu giữ của Nguyễn Chí H.
Trả lại cho NLQ4:
- 01 (một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau có ghi chữ Iphone thu giữ của NLQ4.
Tịch thu sung công quỹ của bị cáo Nguyễn Văn G tiền thu lợi bất chính số tiền 11.550.000 đồng.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn G và Nguyễn Chí H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn G 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09.5.2022.
Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí H 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09.5.2022.
2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy:
1. 01 (một) phong bì số 73/KL-KTHS bên ngoài có ghi: Hoàn lại đối tượng giám định:
- Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định;
- 27,8698 gam mẫu A còn lại sau giám định.
Có đóng dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định. Tịch thu sung công của Nguyễn Văn G:
2. 02 (hai) điện thoại gồm :
- 01 (một) điện thoại màu vàng có ghi chữ Nokia 6300, bên trong có ghi hàng số : 355666/82/312037/2 đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong, có gắn 01 sim ghi hàng số: 8984048000032501080.
- 01 (một) điện thoại màu tím có ghi chữ Iphone, số Imei: 352681233215376 đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong có gắn 01 sim ghi hàng số: 8984048000045536547.
Được niêm phong trong phong bì có chữ kí của Nguyễn Văn G, kí hiệu 01. Tịch thu sung công của Nguyễn Chí H:
3. 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có hình trái táo và dòng chữ Iphone, kiểm tra khe sim có gắn thẻ sim mặt trên có dòng chữ số: 8401201133689264 đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong, được niêm phong trong phong bì có chữ kí của A, B và C. Kí hiệu 02.
Trả lại cho NLQ4:
4. 01 (một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau có ghi chữ Iphone, số Imei: 357263092259715, bên trong có gắn thẻ sim có dãy số: 8984048000327613617 được niêm phong trong phong bì số 03 có chữ kí của NLQ4.
Tổng cộng: 04 (bốn) khoản (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23.9.2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định và Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định).
3/ Các biện pháp tư pháp:
Buộc bị cáo Nguyễn Văn G phải nộp lại số tiền 11.550.000 đồng tiền thu lợi bất chính sung vào ngân sách nhà nước.
4/ Về án phí HSST: Các bị cáo Nguyễn Văn G và Nguyễn Chí H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
5/ Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST
Số hiệu: | 71/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về