Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 21/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2022/TLST- HS ngày 18 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Lâm T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 25/5/1991; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố AL, thị trấn HS, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Nơi ở: Tổ X, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Văn Th1, Đã chết; con bà Hoàng Thị Th2; Có vợ: Phí Hồng Ng1, Sinh năm 1994 (Đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2017.

- Tiền án: 01 tiền án. Tại Bản án số 173/HSPT ngày 24/10/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã xử phạt Trần Lâm T 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Bị cáo đã thi hành xong hình phạt tù, án phí, chưa thi hành xong trách nhiệm bồi thường dân sự cho bị hại). Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

-Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Nguyễn Ngọc T – Luật sư văn phòng luật sư An Toàn, Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

- Người chứng kiến:

Ông Hà Việt D, sinh năm 1962. (vắng mặt) Trú tại: Tổ X, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 40 phút ngày 21/7/2022 Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ Y, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên phát hiện có 01 người nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tiến hành kiểm tra, người này khai họ tên là: Trần Lâm T, sinh năm 1991, Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố AL, thị trấn HS, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên, Nơi ở: Tổ X, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên. T khai nhận đang cất giấu ma túy trên người, thu giữ: Tại túi quần bên trái phía trước có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa 10 viên nén màu xanh, 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng, T khai là ma túy thuốc lắc và Ketamine của T (Niêm phong bì ký hiệu A). Ngoài ra Cơ quan điều ra còn tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đưa T về Cơ quan điều tra để điều tra làm rõ.

Cùng ngày Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Lâm T tại Tổ X, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên, thu giữ: Tại ngăn tủ trong phòng ngủ: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 42 viên nén màu xanh; 01 túi nilon màu trắng bên trong có 23 túi nilon màu trắng đều chứa chất tinh thể màu trắng; 02 túi nilon màu trắng bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng (Niêm phong bì ký hiệu B); 10 túi nilon màu trắng chưa qua sử dụng; 01 cân điện tử màu đen nhãn hiệu Pocket scale.

Mở niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã tạm giữ của T, kết quả: Không phát hiện dữ liệu gì liên quan.

Tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng và lấy mẫu gửi giám định đối với số viên nén, chất tinh thể thu giữ của Trần Lâm T, kết quả:

Bì niêm phong A: 10 viên nén màu xanh, cân xác định khối lượng được 3,26 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định (Ký hiệu A1). Số chất tinh thể màu trắng, cân xác định khối lượng được 5,33 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định (Ký hiệu A2).

Bì niêm phong B: 42 viên nén màu xanh, cân xác định khối lượng được 13,837 gam, lấy 1,647 gam làm mẫu gửi giám định (Ký hiệu B1), còn lại niêm phong lưu kho. Số chất tinh thể màu trắng, cân xác định khối lượng được 132,458 gam, lấy 4,783 gam làm mẫu gửi giám định (Ký hiệu B3) còn lại niêm phong lưu kho.

Tại Kết luận giám định số 1135 ngày 29/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Viên nén màu xanh trong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy loại MDMA, khối lượng thu giữ ban đầu là 3,26 gam. Chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy loại Ketamine, khối lượng thu giữ ban đầu là 5,33 gam. Viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là chất ma túy loại MDMA, khối lượng thu giữ ban đầu là 13,837 gam. Chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu B3 gửi giám định là chất ma túy loại Ketamine, khối lượng thu giữ ban đầu là 132,458 gam.

Quá trình điều tra làm rõ hành vi phạm tội của bị can Trần Lâm T như sau: Khoảng 22 giờ ngày 10/7/2022 T một mình thuê xe taxi đến khu vực BKH Thái Nguyên thuộc phường ĐQ, TPTN, tỉnh Thái Nguyên với mục đích tìm mua ma túy để mang về bán. Tại đây T gặp và mua của một người nam giới tự giới thiệu tên là T, nhà ở Bắc Ninh (Không rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể) 03 túi ma túy Ketamine và 52 viên ma túy tổng hợp thuốc lắc hết số tiền 117.000.000 đồng (Một trăm mười bảy triệu đồng). Sau khi mua được ma túy, T đem về nơi ở của mình tại phòng 1009 tòa B, chung cư TC thuộc Tổ X, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên rồi lấy 01 túi ma túy Ketamine ra chia thành 24 túi nhỏ hơn, sau đó cất giấu toàn bộ số ma túy đã mua vào tủ trong phòng ngủ của mình. Khoảng 14 giờ ngày 21/7/2022 có một người nữ giới gọi điện thoại cho T tự giới thiệu tên là Ánh (Không rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể) đặt mua 01 túi ma túy Ketamine và 10 viên ma túy tổng hợp thuốc lắc, thỏa thuận giá tiền là 8.700.000 đồng (Tám triệu bảy trăm nghìn đồng), hẹn 14 giờ 30 phút cùng ngày T đem ma túy xuống sân chung cư TC thuộc Tổ X phường HVT, TPTN để 2 bên trực tiếp mua bán ma túy. Đến hẹn Trần Lâm T đem theo 01 túi nhỏ ma túy Ketamine và 10 viên ma túy tổng hợp thuốc lắc cất giấu trên người, xuống khu vực sân chung cư TC để chờ bán, khi chưa kịp bán ma túy thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng. Số ma túy còn lại, Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo là: 13,837 gam MDMA và 132,458 gam Ketamine.

Vật chứng vụ án:

1) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A1 trên mép có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Huỳnh và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 3,12 gam MDMA và vỏ bao gói mẫu gửi giám định là mẫu vật hoàn trả sau giám định.

2) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2 trên mép có chữ ký của Nguyễn Thành T, Nguyễn Văn Huỳnh và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 5,21 gam Ketamine và vỏ bao gói mẫu gửi giám định là mẫu vật hoàn trả sau giám định.

3) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu B1 trên mép có chữ ký của Nguyễn Thành T, Nguyễn Văn Huỳnh và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 1,533 gam MDMA và vỏ bao gói mẫu gửi giám định là mẫu vật hoàn trả sau giám định.

4) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu B3 trên mép có chữ ký của Nguyễn Thành T, Nguyễn Văn Huỳnh và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 4,628 gam Ketamine và vỏ bao gói mẫu gửi giám định là mẫu vật hoàn trả sau giám định.

5) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu B2 trên mép có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên trong có 12,19 gam MDMA.

6) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu B4 trên mép có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên trong có 127,675 gam Ketamine.

7) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu L trên mép có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên trong có bì niêm phong vật chứng ban đầu.

8) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu L1 trên mép có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên trong có bì niêm phong vật chứng ban đầu.

9) 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu Đ trên mép có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên trong có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh có số IMEI 3539210715448.

10) 01 (Một) chiếc cân điện tử nhãn hiệu Pocket Scale vỏ nhựa màu đen đã qua sử dụng.

11) 10 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước 4x6cm, chưa qua sử dụng.

Bản cáo trạng số 86/CT-VKS-P1 ngày 12 tháng 10 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Lâm T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

Phần luận tội tại phiên tòa, sau khi phân tích, đánh giá tính chất vụ án, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Lâm T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Lâm T từ 17 (mười bảy) năm tù đến 18 (mười tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000đồng đến 10.000.000đồng.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng là ma túy và vật chứng không còn giá trị sử dụng. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu xanh có số IMEI 3539210715448 thu giữ của bị cáo. Về án phí : Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Trần Lâm T về tội danh, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt và miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bào chữa của luật sư, không tranh luận gì thêm. Bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình.

Sau khi Viện kiểm sát tranh luận đã giữ nguyên bản luận tội và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo tại tòa.

Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin miễn phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên; Của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Lâm T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo là không oan. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Hồi 14 giờ 40 phút ngày 21/7/2022 tại khu vực tổ Y, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TPTN phát hiện, bắt quả tang Trần Lâm T đã có hành vi cất giấu ma túy trên người mục đích để bán nhưng chưa kịp bán thì bị bắt, thu giữ toàn bộ vật chứng. Tiến hành khám xét tại nơi của Trần Lâm T thuộc Tổ X, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên, thu giữ ma túy của T tại ngăn tủ trong phòng ngủ. Tổng khối lượng chất ma túy Trần Lâm T mua bán trái phép là 137,788 gam Ketamine và 17,097 gam MDMA.

Với hành vi trên bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Trần Lâm T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h, khoản 3 Điều 251 Bộ Luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

Nội dung Điều luật quy định như sau:

Điều 251: Tội mua bán trái phép chất ma túy “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” 2..

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a)...

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng...của các chất đó tương đương với khối lượng...chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”.

[3] Xét tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý sử dụng chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo phải xét xử nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích do vậy bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung: Hành vi mua bán ma túy của bị cáo nhằm mục đích kiếm lời nên cần phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự [6] Về vật chứng của vụ án: Các vật chứng là ma túy và các vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone là công cụ để bị cáo thực hiện hành vi giao dịch mua bán ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Về nguồn gốc ma túy bị cáo Trần Lâm T khai mua của người nam giới tên là T và người nữ giới đặt mua ma túy có tên là Ánh (Đều không rõ họ, tên đệm, địa chỉ). Do bị cáo không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh làm rõ.

Như phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy mức hình phạt đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên tòa đối với bị cáo Trần Lâm T là có căn cứ. Chấp nhận một phần đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Căn cứ điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo:

Trần Lâm T 18 (mười tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2022. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000đồng (mười lăm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự vµ §iều 47 Bộ luật hình sự . Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu A1 trên mép có chữ ký của Nguyễn Thành T và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “Hoàn lại 3,12 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Lâm T”. 01 (Một) bì niêm phong theo quy đinh ký hiệu A2 trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Thành T 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “ Hoàn lại 5,21 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Lâm T”. 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu B1 trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Thành T và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “Hoàn lại 1,533 gam mẫu B1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Lâm T”. 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu B3 trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Thành T và 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “Hoàn lại 4,628 gam mẫu B3 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu vụ Trần Lâm T”. 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu B2 trên mép dán có chữ ký ghi họ tên Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “12,19 gam viên nén mầu xám. Lưu kho”; 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu B4 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên ngoài ghi: “127,675 gam chất tinh thể mầu trắng”. 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu L trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên ngoài ghi: “bì niêm phong ban đầu”. 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu L1 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên ngoài ghi: “bì ban đầu”. 01 (Một) chiếc cân điện tử nhãn hiệu Pocket Scale vỏ nhựa màu đen đã qua sử dụng. 10 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước 4x6cm, chưa qua sử dụng.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (Một) bì niêm phong theo quy định ký hiệu Đ trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Trần Lâm T và các thành phần tham gia, 03 hình dấu tròn đỏ Cơ quan CSĐT Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên bên ngoài ghi: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone”.

Vật chứng nêu trên đúng như tình trạng tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2022 giữa cơ quan điều tra công an tỉnh Thái Nguyên và Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về