Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 686/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 686/2023/HS-PT NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 478/2023/TLPT-HS ngày 03/7/2023. Do có kháng cáo của bị cáo Trương Quốc T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

Bị cáo có kháng cáo: Trương Quốc T, sinh năm 1990, tại thành phố C, tỉnh An Giang; Nơi thường trú: Tổ A, ấp M, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Phật; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trương Phú M, sinh năm 1951 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1960; Anh, chị, em: Có 07 người, bị cáo là người thứ tư; Vợ: Lê Thị P, sinh năm 1986; Con: Trương Quốc K, sinh năm 2007.

Quá trình nhân thân:

- Từ nhỏ sống chung cha mẹ, học đến lớp 5 nghỉ, phụ giúp gia đình.

- Ngày 29/8/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Đến ngày 09/8/2010 chấp hành xong.

- Ngày 30/9/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện đang chấp hành hình phạt tại Trại giam K1 - Bộ C1 (tỉnh Kiên Giang).

- Tiền sự : Không.

- Bị cáo đang chấp hành hình phạt tại Trại giam K1 - Bộ C1 (tỉnh Kiên Giang).

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Ông Phan Văn B – Luật sư thuộc Văn phòng L3 thuộc Đoàn luật sư tỉnh A. (có mặt) Trong vụ án này còn có các bị cáo khác và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn B1 là người nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, từ khoảng tháng 3/2020 đến tháng 4/2021 B1 đã nhiều lần mua ma túy của người tên S, D (không rõ họ tên, địa chỉ ở Thành phố Hồ Chí Minh) mỗi lần từ 30 gam đến 100 gam với giá từ 10.500.000 đồng đến 35.000.000 đồng đem về thành phố C để sử dụng và bán lại cho nhiều người, trong đó có Trương Quốc T và Nguyễn Long H. Cách thức mua bán ma túy là Bé thỏa thuận với S, D đặt mua số lượng, giá tiền rồi B1 chuyển tiền qua hệ thống điện máy xanh để S, D chuyển ma túy về cho B1 thông qua ký gửi xe khách “Huệ Nghĩa” từ Thành phố Hồ Chí Minh đến trạm xe khách tại thị trấn N, huyện T, tỉnh An Giang, sau khi gửi ma túy S, D sẽ thông tin cho B1 về gói hàng có chứa ma túy để B1 đến trạm xe để nhận.

Ngày 24/01/2021, Trương Quốc T đặt mua của Nguyễn Văn B1 100 gam ma túy đá với giá 45.000.000 đồng, thỏa thuận sẽ trả tiền sau khi bán được ma túy. Sau đó, Bé liên hệ với D đặt mua 100 gam ma túy với giá 35.000.000 đồng, đồng thời yêu cầu T cung cấp số điện thoại để ghi thông tin trên gói hàng, T cung cấp số điện thoại 0X02962 cho B1, sau đó Bé cung cấp số điện thoại này cho D để ghi trên thùng hàng có chứa ma túy. Sau khi gửi ma túy xong, D chụp ảnh thùng hàng chứa ma túy gửi qua zalo cho B1, B1 chuyển tin nhắn hình ảnh này cho T và kêu T đến trạm xe “Huệ Nghĩa” ở thị trấn N, huyện T ma túy. T kêu Nguyễn Long H đến trạm xe “Huệ Nghĩa” nhận ma túy thì H đồng ý và T gửi hình chụp thùng hàng cho H. Sáng ngày 25/01/2021, T đưa xe mô tô biển số 67E1 - X (do Lê Thị P là vợ của T đứng tên chủ sở hữu) và 01 điện thoại di động hiệu Itel màu xanh đen có gắn 02 sim số X.002.962 và X.277.005 cho H để H đi nhận ma túy. Đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, H đến Trạm xe khách H1 (thị trấn N, huyện T) nhận 01 thùng giấy bên trong có 01 hộp sữa Vinamilk đựng 01 bọc nylon chứa 99,8179 gam ma túy loại Methamphetamine, khi H lên xe chuẩn bị chạy đi thì bị Công an huyện T phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là ma túy và tạm giữ Hồ để điều tra xử lý.

Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ tháng 3/2020 đến tháng 3/2021, B1 nhiều lần mua ma túy về phân lẻ sử dụng và phân lẻ bán lại cho nhiều người. Cụ thể:

- Từ tháng 5/2020 - 8/2020, Bé bán cho Nguyễn Bảo Đ 04 lần, Hồ Văn C 04 lần, Mai Tùng L 01 lần, Trần Thế D1 01 lần mỗi lần 25 - 50 số ma túy với giá từ 1.300.000 đồng - 2.600.000 đồng. Riêng ngày 20 và 21/8/2020, D1, Đ mua ma túy của Bé về sử dụng được một ít, số còn lại cất giấu trong người rồi đến thành phố C chơi thì bị Công an thành phố C phát hiện bắt quả tang, thu giữ của D1 0,0196 gam ma túy loại Methamphetamine và thu giữ của Đảo 0,0569 gam ma túy loại Methamphetamine.

- Từ cuối tháng 02/2021 - đầu tháng 3/2021, B1 bán cho Phan Văn L1 khoảng 04, 05 lần mỗi lần 500.000 đồng - 700.000 đồng.

- Từ khoảng tháng 3/2020 đến tháng 01/2021, B1 trực tiếp bán cho Nguyễn Long H (M1) nhiều lần, mỗi lần từ 500.000 đồng - 1.000.000 đồng.

- Ngoài hành vi bán ma túy Trương Quốc T vào ngày 24/01/2021 nêu trên, thì từ giữa năm 2020 đến tháng 02/2021, B1 đã nhiều lần bán ma túy cho T, mỗi lần 200.000 đồng đến 700.000 đồng. Riêng ngày 05/02/2021, Bé đưa bọc ma túy cho Trương Quốc T để T đem bán cho người thanh niên (không rõ họ tên địa chỉ) với giá 9.500.000 đồng ở phường V, thành phố C thì bị Công an thành phố C phát hiện bắt quả tang thu giữ 14,8486 gam ma túy loại Methamphetamine.

Ngày 04/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A khám xét nơi ở của Nguyễn Văn B1 tại tổ A, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang thu giữ 03 bọc nylon bên trong chứa 0,1597g và 27,3156g ma túy loại Methamphetamine;

01 roi điện, 01 súng bắn điện và các vật dụng liên quan khác. Đồng thời, khám xét khẩn cấp nơi ở của B1 tại nhà của Trương Thị M2 (chung sống như vợ chồng với B1) ngụ Tổ B, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang thu giữ thêm 01 bọc nylon bên trong chứa 0,1550 gam ma túy loại Methamphetamine và 01 bình hút bằng thủy tinh. M2 khai nhận số ma túy bị thu giữ là của B1 đem đến nhà vào ngày 03/4/2021 để sử dụng chung, số còn lại M2 cất giữ để sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.

Từ ngày 02/02/2021, đến ngày 10/11/2022, B1, L2, M2, T bị khởi tố điều tra.

* Căn cứ các Kết luận giám định số 28, 72, 75 ngày 28/01/2021; 13/4/2021 và 20/4/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh A, kết luận:

+ Mẫu M (thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Long H) gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 99,8179g.

+ Mẫu M1, M2 (thu giữ tại nhà của Nguyễn Văn B1) gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,1597g và 27,3156g.

+ Mẫu M (thu giữ tại nhà của Trương Thị M2) gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,1550g.

* Căn cứ các Kết luận giám định số 221, 42, 222 ngày 22/9/2020; 23/9/2020; 08/02/2021 của Phòng KTHS Công an tỉnh A, kết luận:

+ Mẫu M (thu giữ của Nguyễn Bảo Đ) gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0569 gam.

+ Mẫu M (thu giữ của Trương Quốc T) gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 14,8486 gam.

+ Mẫu M (thu giữ của Trần Thế D1) gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0196 gam.

* Căn cứ Kết luận giám định số 3085 ngày 04/6/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 01 roi điện, 01 súng bắn điện là công cụ hỗ trợ, không phải là vũ khí quân dụng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã tuyên xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn B1, Trương Quốc T, Nguyễn Long H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

… Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt: Bị cáo Trương Quốc T 17 (mười bảy) năm tù.

- Tổng hợp hình phạt của bản án số 95/HS-ST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 25 (hai mươi lăm) năm tù.

- Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 05/02/2021. Ngoài ra, bản án còn quyết định về tội danh và hình phạt của các bị cáo Nguyễn Văn B1, Nguyễn Long H, Trương Thị M2, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/4/2023 bị cáo Trương Quốc T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho rằng mức án sơ thẩm áp dụng quá nặng so với hành vi của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Quốc T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định. Về nội dung vụ án đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt.

Về nội dung, xét kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo Trương Quốc T. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận là người trực tiếp mua bán trái phép chất ma túy, mặc dù bị cáo có thể hiện thái độ thành khẩn khai báo nhưng án sơ thẩm đã tuyên mức án phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Quốc T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Phan Văn B bào chữa cho bị cáo trình bày: Ở cấp sơ thẩm bị cáo cho rằng bị cáo không phải là người trực tiếp mua bán ma túy, tuy nhiên sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình và nay đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo thống nhất với lời bào chữa của Luật sư và bổ sung: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết, bị cáo hối hận về hành vi của bị cáo, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của bị cáo Trương Quốc T trong hạn luật định, hợp lệ nên đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Xét kháng cáo:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Trương Quốc T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, phù hợp với Kết luận giám định, lời khai của người liên quan, những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận:

Vào khoảng tháng 4/2020 đến tháng 01/2021, T nhiều lần đặt mua ma túy của Nguyễn Văn B1. Vào ngày 24/01/2021 T đặt mua 100 gam ma túy đá, thỏa thuận giá 45.000.000 đồng. Bé đã đặt mua ma túy của người tên D ở Thành phố Hồ Chí Minh, D gửi ma túy về thông qua việc ký gửi hàng hóa theo xe Huệ Nghĩa. Bé kêu T cung cấp số điện thoại để D ghi vào gói hàng gửi cho T nhận. Sau khi gửi hàng xong, D chụp ảnh thùng hàng chứa ma túy gửi qua zalo cho B1, B1 chuyển tin nhắn hình ảnh cho T và kêu T đến trạm xe Huệ N1 nhận ma túy. Nếu T nhận xong sẽ báo cho B1 biết. Đến ngày 26/01/2021, T gọi điện cho B1 biết: “Long Hồ đi nhận ma túy và bỏ trốn luôn rồi, bây giờ T bán vàng trả tiền cho B1 trước 20.000.000 đồng”. Thời gian sau này mới biết Long H bị Công an bắt, chứ không phải bỏ trốn. Sau khi Long H bị bắt, T có mua thêm ma túy của Bé 1 - 2 lần, mỗi lần 150 số (tương đương 15 gam). Lần cuối bán cho T 150 số ma túy, trên đường T đem đi bán cho người khác thì bị Công an thành phố C bắt giữ.

Đối chiếu lời khai của 02 bị cáo H và B1 là hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án, việc bị cáo T nhiều lần đặt mua ma túy của B1 về để phân lẻ bán lại cho các con nghiện, có sự giúp sức của bị cáo H là có thật. Mặc khác, bị cáo T cũng thừa nhận vào ngày 24/01/2021 có đặt mua ma túy của bị cáo B1, nhưng chỉ mua có 500.000 đồng để sử dụng. Bị cáo T cũng thừa nhận bị cáo B1 có chuyển hình ảnh thùng hàng ma túy qua cho bị cáo để kêu bị cáo nhận thùng hàng ma túy này, cũng chính bị cáo chuyển tin nhắn hình ảnh này lại cho H, giao xe của bị cáo cho H đi nhận ma túy. Bị cáo T còn khai nhận trước đây có thường xuyên đi bán ma túy cho bị cáo B1. Sau khi, bị cáo H bị phát hiện bắt giữ vào ngày 25/01/2021, thì bị cáo T vẫn còn liên lạc mua bán ma túy với B1. Điển hình vào ngày 05/02/2021 bị cáo đang đi trên xe mô tô thì bị lực lượng tuần tra kiểm tra phát hiện bắt giữ khối lượng ma túy 14,8486 gam ma túy loại Methamphetamine, bị cáo khai do bị cáo B1 giao cho bị cáo bán cho những người nghiện, đã bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, hiện đang chấp hành án.

Qua các chứng cứ nêu trên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Trương Quốc T có thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy vào ngày 24-25/01/2021 cùng với bị cáo B1, H với khối lượng ma túy là 99,8179 gam Methamphetamine. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy là 99,8179 gam Methamphetamine.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, không sai.

[2.2] Về hình phạt:

Bị cáo Trương Quốc T là người có đầy đủ sức khỏe, có năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng nhận thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì lười biếng lao động, hám lợi mà dấn thân vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xem thường pháp luật của Nhà nước, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn khác, xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian dài thì mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo góp phần răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.

Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm khi lượng hình có xem xét bị cáo Trương Quốc T cùng với Nguyễn Văn B1 là những người chủ mưu cầm đầu trong việc mua bán ma túy, nên phải chịu trách nhiệm với vai trò chính. Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên bị cáo T có nhân thân xấu, vào năm 2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, ngày 30/9/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, cho thấy bị cáo T đã không cải sửa để trở thành một công dân sống có ích cho xã hội mà trái lại bị cáo lại đi vào con đường nghiện ma túy, để rồi lại phải tiếp tục phạm tội mới về ma túy. Từ đó Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức án 17 năm tù là đã có xem xét, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi lời khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị được áp dụng tình tiết giảm nhẹ mới là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử ghi nhận tình tiết thành khẩn nhận tội của bị cáo nên cần thiết áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, tuy nhiên lời khai nhận tội này không làm thay đổi bản chất của hành vi phạm tội và không đủ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Cấp sơ thẩm căn cứ vào khối lượng ma túy là 99,8179 gam Methamphetamine mà bị cáo phạm tội khi áp dụng hình phạt, do đó mức án 17 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo. Ngoài ra, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không có tài liệu, chứng cứ mới so với các tình tiết đã được cấp sơ thẩm áp dụng nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận lời trình bày của bị cáo cũng như lời bào chữa của Luật sư và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Quốc T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

Tuyên xử:

1/ Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố các bị cáo Trương Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Xử phạt: Bị cáo Trương Quốc T 17 (mười bảy) năm tù.

- Tổng hợp hình phạt của bản án số 95/HS-ST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang xử phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 25 (hai mươi lăm) năm tù.

Hội đồng xét xử tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

3/ Án phí phúc thẩm: Buộc bị cáo Trương Quốc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 686/2023/HS-PT

Số hiệu:686/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về