TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 68/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh S xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2024/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Hạng Thị T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1977 tại huyện M, tỉnh S. Nơi cư trú: Bản Cột Mốc, xã T, huyện V, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Hạng A D và bà Lầu Thị D1; Bị cáo có chồng là Mùa A V (đã chết), hiện đang chung sống như vợ chồng với Thào A L và có 06 con (con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo ra tự thú, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/8/2023 cho đến nay. Có mặt.
2. Phàng Thị V1, tên gọi khác: Không, sinh năm 1999 tại huyện V, tỉnh S. Nơi cư trú: Bản Pưng, huyện S, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Lào; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Phàng A C và bà Thào Thị C1; bị cáo có chồng là Ly A S và 04 con (con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh ngày 30/8/2020); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/8/2023 cho đến nay. Có mặt.
3. Cứ Thị C2, tên gọi khác: Cứ Thị D2, sinh năm 1999 tại huyện S, tỉnh Hủa Phăn, Lào. Nơi cư trú: Bản H, huyện S, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Lào; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Cứ A V2 (đã chết) và bà Vàng Thị S1; bị cáo có chồng là Ly A P và 04 con (con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/8/2023 cho đến nay. Có mặt.
- Người phiên dịch cho bị cáo Phàng Thị V1, Cứ Thị C2:
+ Bà Cà Thị D3; địa chỉ: Trường Cao đẳng S2, tổ B, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có mặt.
+ Ông Tráng A C3, sinh năm 2004; địa chỉ: Thôn G, xã C, huyện M, tỉnh S. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Hạng Thị T: Ông Đàm Mạnh H, Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh S. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phàng Thị V1: Ông Hoàng Trung T1, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh S. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Cứ Thị C2: Ông Lò Văn Đ, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh S. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do muốn có tiền để tiêu nên khoảng tháng 7/2023, Hạng Thị T gọi điện bảo Phàng Thị V1 tìm mua một bánh Heroine để mang đến tỉnh Đắk Lắk bán, tiền lãi có được sẽ chia nhau, V1 đồng ý và hẹn khi nào Trú cần sẽ mang ma túy sang Việt Nam cho T.
Sau đó V1 gặp Cứ Thị C2 và bảo C2 tìm mua Heroine về bán kiếm lời, C2 đồng ý. Chư gọi điện cho một người phụ nữ dân tộc Mông (C2 không biết rõ tên, tuổi địa chỉ, là người thường đi qua bản của C2 nói có ma túy bán) để đặt mua 01 bánh Heroine, người phụ nữ nói giá 50 triệu Kíp Lào và phải trả trước 20 triệu Kíp Lào, số còn lại bán xong thì trả nốt rồi hẹn vài hôm nữa sẽ mang ma túy đến. Khoảng 02 ngày sau, người phụ nữ gọi điện thông báo đã mang ma túy đến và bảo C2 đến gặp để lấy. Do chưa có tiền nên C2 đi sang nhà gặp V1 và nói cần có tiền trả cho người bán ma túy, V1 đưa cho C2 sợi dây chuyền vàng, C2 vay được thêm 10 triệu Kíp Lào để đưa cho người phụ nữ, số tiền còn lại hẹn sẽ trả sau khi bán được ma túy, người bán đồng ý và đưa cho C2 một túi nilon màu đen bên trong đựng 01 bánh Heroine. Nhận được ma túy, C2 mang về nhà cất giấu trong tủ quần áo.
Đến khoảng tháng 8/2023, T gọi điện cho V1 bảo mang ma túy sang Việt Nam cho T và hẹn đón ở bản C, xã T, huyện V tỉnh S. Ngày 15/8/2023 V1, C2 mang bánh Heroine đã mua và đi bộ đến biên giới Việt Nam - Lào, gặp và thuê được một người phụ nữ vận chuyển bánh Heroine sang bản Cột Mốc của Việt Nam với tiền công là 01 triệu đồng. Khi đi đến bản C, xã T, huyện V thì gặp T, T nhận bánh Heroine rồi cất vào trong người sau đó cả 3 cùng về nhà T ngủ lại. Đến sáng ngày 16/8/2023, C2 mua giấy bạc và cùng T, V1 quấn bánh Heroine vào trong chiếc balo màu xanh của Trú. Đến 19 giờ cùng ngày, T đeo ba lô (chứa bánh Heroine) vào người rồi bảo con trai là Mùa A C4 chở T, còn V1 và C2 thuê xe ôm cùng đi đến ngã ba V thuộc bản B, xã V, huyện V đón xe khách đi Đắk Lắk. Do đón nhầm xe nên khi xe đi đến khu vực rừng già thuộc xóm X, xã P, huyện M, tỉnh Hòa Bình thì T, V1 và C2 xuống xe. Sau khi xuống xe, do sợ bị phát hiện Trú xách balo đựng bánh Heroine cùng C2, V1 vào trong rừng ven đường gần đó rồi phủ đất lên. Gần sáng ngày 17/8/2023 cả ba đi bộ về xã L, huyện V. Trên đường đi V1 bảo sẽ gọi người nhà ra đón nên T đã đón xe khách về trước. Đến ngày 18/8/2023, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên T đã đến Công an huyện V, tỉnh S tự thú còn C2 và V1 đi đến khu vực ngã ba huyện V thì bị phát hiện bắt giữ.
Cùng ngày 18/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, phát hiện ở khe đá tại tọa độ 20°43’45”B 104°56’48”Đ thuộc địa phận xóm X, xã P, huyện M, tỉnh Hòa Bình có 01 túi nilon màu xanh bên trong có bột trắng nghi H1 (Trú, C2 và V1 khai nhận là ma túy cất giấu trước đó).
Ngày 18/8/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện V, tỉnh S tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh, xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy thu giữ của Hạng Thị T, Phàng Thị V1 và Cứ Thị C2 có khối lượng 315,06 gam, trích 0,24 gam làm mẫu giám định chất ma túy, ký hiệu T2 Kết luận giám định số 2025/KL-KTHS ngày 20/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh S kết luận: Mẫu ký hiệu T gửi giám định là ma túy, loại Heroine (H), có tên khoa học là D4, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/ND-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 315,06 gam, loại Heroine (H).
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 10/CT-VKS-P1 ngày 08/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh S đã truy tố các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và không khai báo gì thêm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh S giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị:
Tuyên bố các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy + Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm r, s, t khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hạng Thị T từ 18 đến 19 năm tù.
+ Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phàng Thị V1 20 năm tù.
+ Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Cứ Thị C2 20 năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu trưng cầu giám định chất ma túy cùng các vỏ phong bì niêm phong đã bóc mở, 03 que test thử thai của Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 và 01 ba lô thu giữ của Hạng Thị T.
+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 chiếc điện thoại thu giữ của Hạng Thị T và Phàng Thị V1.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Quan điểm bào chữa của Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý cho bị cáo Hạng Thị T: Nhất trí với cáo trạng truy tố và luận tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo 17 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
- Quan điểm bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo Phàng Thị V1: Nhất trí với cáo trạng truy tố về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ do đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội khi còn đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo tù có thời hạn.
- Quan điểm bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo Cứ Thị C2: Nhất trí với cáo trạng truy tố của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, đề nghị áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, Điều 17, Điều 38, khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 17 đến 18 năm tù và không áp dụng hình phạt bổ sung.
- Các bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa của luật sư bào chữa và không có ý kiến gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Ngày 18/8/2023, Hạng Thị T đã đến Công an huyện V, tỉnh S tự thú về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tạm giữ của Hạng Thị T: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh và 01 chiếc ba lô. Mở rộng điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh S, ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phàng Thị V1, trú tại: Bản P, huyện S, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào và Cứ Thị C2 (Cứ Thị D2), trú tại: Bản H, xã S, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào về hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy. Tạm giữ của Phàng Thị V1: 01 chiếc điện thoại NOKIA 106 màu đen.
Cùng ngày 18/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu xanh trong có bột trắng nghi H1 (Trú, C2 và V1 khai nhận là ma túy cất giấu trước đó).
Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng căn cứ sau:
- Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú lập hồi 07 giờ 30 phút ngày 18/8/2023 tại Trụ sở Công an huyện V, tỉnh S về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy của Hạng Thị T; Biên bản niêm phong tài liệu, đồ vật bị tạm giừ; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Biên bản làm việc nhận diện đối tượng Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 (Cứ Thị D2); Biên bản mở niêm phong, kiểm đếm số lượng, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra thông tin lưu trữ trong điện thoại di động của Hạng Thị T.
- Kết luận giám định số 2025/KL-KTHS ngày 20/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh S kết luận: Mẫu ký hiệu T gửi giám định là ma túy, loại Heroine (H), có tên khoa học là D4, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh chất ma túy và tiền chất. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 315,06 gam, loại Heroine (H).
- Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn đối với Phàng Thị V1 và Cứ Thị C2 (Cứ Thị D2); Biên bản niêm phong, đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.
- Lời khai nhận tội của các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến việc bắt người tự thú đối với Hạng Thị T, thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phàng Thị V1, Cứ Thị C2; phù hợp với khối lượng ma túy thu giữ và các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.
Với các căn cứ chứng minh trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt:
Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 có hành vi Mua bán trái phép 315,06 gam Heroine đã vi phạm tình tiết định khung: “Heroine, C5, Methamphetamine, A, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng 100 gam trở lên” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và Luật sư bào chữa cho các bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
Các bị cáo Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 (Cứ Thị D2) là người nước ngoài, phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam, sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt chính là hình phạt tù, cần áp dụng hình phạt bổ sung trục xuất các bị cáo ra khỏi lãnh thổ nước CHXNCN Việt Nam theo Điều 37 Bộ luật hình sự
[5] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo:
Vụ án có tính chất đồng phạm, bị cáo Hạng Thị T là người khởi xướng, liên lạc với Phàng Thị V1 để trao đổi việc mua ma túy, bị cáo Phàng Thị V1 sau khi tiếp nhận ý chí của T đã góp vàng với Cứ Thị C2 để C2 mua ma túy; bị cáo Cứ Thị C2 tiếp nhận ý chí của bị cáo V1 chủ động tìm nguồn mua, góp tiền cùng V1 và trực tiếp đi mua ma túy. Sau khi mua được ma túy, V1 và C2 mang ma túy sang Việt Nam để cùng T mang bán để kiếm lời. Do đó, các bị cáo có vai trò ngang nhau trong vụ án.
Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật nước CHDCND Lào cũng như pháp luật nước CHXHCN Việt Nam nhưng vì lười lao động, muốn kiếm tiền nhanh nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; tội phạm về ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương khu vực biên giới V - Lào. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo tính giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.
[6] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đều phạm tội khi đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hạng Thị T tự thú về hành vi phạm tội, tích cực giúp Cơ quan điều tra làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo Hạng Thị T có nhiều tình tiết giảm nhẹ do đó việc áp dụng Điều 54 xử bị cáo dưới mức khung hình phạt áp dụng thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước, đồng thời vẫn đảm bảo được tính giáo dục, răn đe, giúp bị cáo trở thành người lương thiện.
Các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 phạm tội có tính chất đồng phạm nên cần áp dụng quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự khi xem xét, lượng hình đối với các bị cáo.
[7] Về nguồn gốc ma túy và các đối tượng có liên quan:
Về nguồn gốc ma túy, Cứ Thị C2 khai nhận mua của một người phụ nữ dân tộc Mông, nhưng không biết tên tuổi, địa chỉ, không nhớ số điện thoại; số tiền 10 triệu Kíp Lào, C2 khai vay của một người đàn ông đang chuyển ngô trên đường nhưng không biết tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để tiếp tục xác minh.
Đối với người phụ nữ dân tộc Mông theo bị cáo V1 khai là người vận chuyển thuê ma túy cho các bị cáo từ Lào sang bản C, xã T, huyện V, tỉnh S nhưng các bị cáo khai không biết rõ tên, tuổi của người phụ nữ nên không có tài liệu, chứng cứ khác để tiếp tục điều tra làm rõ.
Đối với Mùa A C4, sinh năm 2004, trú tại bản C, xã T, huyện V, tỉnh S (là con của Hạng Thị T) là người chở T cùng ba lô đựng ma túy từ nhà ra ngã ba huyện V để đón xe khách đi Đắk Lắk, nhưng Mùa A C4 không biết, không liên quan gì đến hành vi mua bán ma túy của Hạng Thị T. Do đó, không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự đối với Mùa A C4.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 314,82 gam Heroine còn lại sau khi đã trích rút mẫu gửi giám định xét thấy là loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng với giấy niêm phong dán ban đầu đã bóc mở cùng vỏ hộp bìa cát tông niêm phong cũ, các vỏ gói ban đầu, 03 que test thử thai của Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 cùng 01 ba lô màu xanh thu giữ của Hạng Thị T không còn giá trị sử dụng.
Đối với 02 chiếc điện thoại thu giữ của các bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa có căn cứ xác định: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A12 thu giữ của Phàng Thị V1; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 106 thu giữ của Phàng Thị V1 là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[9] Về án phí: Bị cáo Hạng Thị T là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
1.1. Căn cứ Điều 251 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố các bị cáo Hạng Thị T, Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm r, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 54 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hạng Thị T 18 (mười tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 18/8/2023).
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 37 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phàng Thị V1 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 18/8/2023). Trục xuất bị cáo Phàng Thị V1 ra khỏi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 37 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Cứ Thị C2 (Cứ Thị D2) 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 18/8/2023). Trục xuất bị cáo Cứ Thị C2 (Cứ Thị D2) ra khỏi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
1.2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
* Tịch thu tiêu hủy:
- 314,82 gam Heroine + vỏ hộp bìa cát tông niêm phong cũ + các vỏ gói ban đầu (được đựng trong 01 (một) hộp vật chứng còn nguyên niêm phong) + vỏ hộp bìa cát tông niêm phong cũ + các vỏ gói ban đầu.
- 01 (Một) que test thử thai đối với Phàng Thị V1 (được niêm phong trong một phong bì do Bưu điện V3 phát hành).
- 01 (Một) que test thử thai đối với Hạng Thị T (được niêm phong trong một phong bì do Bưu điện V3 phát hành).
- 01 (Một) que test thử thai đối với Cứ Thị C2 (được niêm phong trong một phong bì do Bưu điện V3 phát hành).
- 01 (Một) chiếc ba lô có quai đeo bằng vải màu xanh đã qua sử dụng.
* Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:
- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhăn hiệu OPPO A12 màu xanh đen, gắn kèm 01 (một) sim điện thoại, đã qua sử dụng thu giữ của Hạng Thị T (được niêm phong trong 01 chiếc phong bì).
- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 106, vỏ màu đen, màn hình bị vỡ, có số seri 1: 354204109632125, seri 2: 356204109912121, gắn kèm 01 (một) sim điện thoại, đã qua sử dụng thu giữ của Phàng Thị V1 (được niêm phong trong 01 chiếc phong bì).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hạng Thị T. Các bị cáo Phàng Thị V1, Cứ Thị C2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/01/2024).
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 68/2024/HS-ST
Số hiệu: | 68/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về