Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại Hội trường Nhà văn hóa xóm T, xã V, huyện Đ.Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2023/TLHS-ST, ngày 19 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 62/2023/QĐXXST-HS ngày 7 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01/01/1973; Nơi cư trú và đăng ký HKTT: Xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Văn S- Đã chết; Con bà: Ngô Thị X- Đã chết; Gia đình có 06 anh, chị, em bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; Vợ Lăng Thị H- Sinh năm 1971; Con: 03 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/03/2023 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đ. (Có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đồng thời là người làm chứng:

Anh Bùi Huy Đ. Sinh năm 1968 (Vắng mặt).

Trú tại: Xóm T, xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Anh Phạm Văn D1, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Trú tại: Xóm P, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

* Người chứng kiến:

- Anh Vũ Văn S1, sinh năm 1971. (Vắng mặt) Trú quán: Xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 00 phút, ngày 02/3/2023, tổ công tác Công an huyện Đ đang làm nhiệm vụ xóm T, xã V, Đ thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà Lê Văn D đang diễn ra hoạt động mua bán trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, Lê Văn D tự giác giao nộp 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng ở trong lòng bàn tay phải của D (D khai là Heroine của D); thu giữ tại túi quần phía sau bên phải của Bùi Huy Đ (sinh năm: 1968, trú tại: Xóm T, xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên) số tiền 100.000đ; thu giữ trong lòng bàn tay phải của Phạm Văn D1 (sinh năm: 1990, trú tại: Xóm P, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên) số tiền 100.000đ. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, tổ công tác tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của D tại xóm T, xã V, huyện Đ tỉnh Thái Nguyên, kết quả: Phát hiện thu giữ tại ghế bàn uống nước kê ở góc sân bên trái hướng từ cổng vào có 01 ví nâu màu đen bên trong có: 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Văn D; 01 túi nilon màu trắng bên trong có 06 gói giấy bạc màu trắng đều chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy; số tiền 1.200.000đ.

Ngày 03/3/2023, mở niêm phong - cân xác định trọng lượng lấy mẫu giám định - đóng niêm phong tại Công an tỉnh T:

- 02 gói nhỏ bằng giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng nghi là H1 được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT là: 0,181 gam và lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định - ký hiệu A1.

- 01 túi nilon màu trắng bên trong có 06 gói giấy bạc màu trắng, bên trong các gói giấy bạc đều có chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine được niêm phong trong phong bì kí hiệu KX là: 0,343 gam và lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định - ký hiệu A2.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Bản thân D là người nghiện chất ma túy nên đã nhiều lần mua Heroine về sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Ngày 25/02/2023, D đến khu vực đầu cầu G thuộc phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên mua Heroine của 01 người đàn ông không biết tên, địa chỉ với giá 1.000.000đ. Sau đó, D mang số Heroine về nhà chia làm nhiều gói nhỏ để bản thân sử dụng và bán kiếm lời. Trong khoảng thời gian từ ngày 28/02/2023 đến ngày 02/03/2023, tại nhà của D, D đã nhiều lần bán Heroine cho Bùi Huy Đ, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ 00 ngày 28/2/2023, D đã bán cho Đ 01 gói Heroine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng).

- Lần thứ 2: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 01/3/2023 D đã bán cho Đ 01 gói Heroine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng).

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 02/3/2023, Bùi Huy Đ và Phạm Văn D1 đi đến nhà Lê Văn D để mua Heroine, khi gặp được Dục Đ1 hỏi “còn không bán cho mỗi anh em một trăm?” Dục hiểu Đ1 hỏi là còn H1 không bán cho Đ1 và D1 mỗi người 100.000 đ. Sau đó, D bán cho Đ1 và D1 mỗi người một gói Heroine với giá 100.000đ/gói (một trăm nghìn đồng/gói) nhưng chưa kịp nhận tiền và đưa H1 cho Đ1 và D1 thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Ngoài ra, quá trình điều tra còn làm rõ số tiền 1.200.000đ thu giữ qua khám xét gồm 1.000.000đ là tiền do D lao động mà có, 200.000đ là do bán ma túy cho Đ1 mà có.

Vật chứng của vụ án gồm: 0,172 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 0,334 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2; 01 phong bì ký hiệu LK; 01 (một) thẻ căn cước công dân số 01907300xxxx mang tên Lê Văn D; 01 ví nâu; số tiền 1.400.000 đ tiền ngân hàng N. Hiện đang được bảo quản theo quy định chờ xử lý Hiện đang được bảo quản, lưu giữ tại kho vật chứng của Chị cục thi hành án Đồng Hỷ chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 63/CT-VKSĐH ngày 14/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ đã truy tố bị cáo Lê Văn D về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Xác định tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó,Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo thể hiện qua bản cáo trạng và đề nghị mức hình phạt như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” .

Áp dụng: điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo D mức án từ 09 năm đến 10 năm tù.

Về hình phạt bổ sung bị cáo D phạm tội nhằm mục đích mua bán kiếm lời nên cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung bị cáo với số tiền từ 5 đến 7 triệu đồng theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,172 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 0,334 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2; 01 phong bì kỷ hiệu LK và 01 ví nâu.

Hoàn trả bị cáo 01 (một) thẻ căn cước công dân số 01907300xxxx mang tên Lê Văn D.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước của bị cáo D 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) do phạm tội mà có và anh Bùi Huy Đ và Phạm Văn D1 mỗi người 100.000đồng tiền ngân hàng N do mua ma tuý.

Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án của bị cáo số tiền 1.000.000đồng tiền ngân hàng N do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo D.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và bị truy tố, xét xử là không oan, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Tại phiên tòa hôm nay, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Bùi Huy Đ và Phạm Văn D1 vắng mặt. Xét thấy, anh Đ và anh D1 đang thực hiện mua ma tuý của bị cáo thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng, trong quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với những người trên.

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên,Viện kiểm sát huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay bị cáo D thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ xác định:

Bản thân là người nghiện ma túy bị cáo D đến khu vực đầu cầu G thuộc phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên mua Heroine của 01 người đàn ông không biết tên, địa chỉ với giá 1.000.000đ. Sau đó, bị cáo mang số Heroine về nhà chia làm nhiều gói nhỏ để bản thân sử dụng và bán kiếm lời trong khoảng thời gian từ ngày 28/02/2023 đến ngày 02/03/2023, tại nhà của bị cáo Lê Văn D ở xóm T, xã V, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, D đã nhiều lần bán Heroine trái phép, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ 00 ngày 28/02/2023, D đã bán cho Bùi Huy Đ 01 gói Heroine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng).

- Lần thứ 2: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 01/03/2023 D đã bán cho Đ 01 gói Heroine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng).

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 02/03/2023, D đang bán cho Bùi Huy Đ và Phạm Văn DI mỗi người một gói Heroine với giá 100.000đ/gói (một trăm nghìn đồng/gói) nhưng chưa kịp nhận tiền và đưa H1 cho Đ và D1 thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ số Heroine có tổng khối lượng 0,181 gam.

Khám xét khẩn cấp nhà ở của bị cáo D Cơ quan điều tra còn thu giữ 0,343 gam Heroine mục đích để bị cáo để dụng và bán kiếm lời. Vậy tổng khối lượng Heroine thu giữ của bị cáo D là 0,524 gam.

Tại Bản kết luận giám định số 480/KL-KTHS ngày 11/3/2023 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận: Mau chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,181 gam; Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,343 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội: Mua bán trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1.Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a, ...

b, Phạm tội 2 lần trở lên c, Mua bán với 2 người trở lên Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra theo điều luật nói trên.

[3] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, hành vi đó của bị cáo gây ảnh hưởng xấu, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương, là nguyên nhân phát sinh của những loại tội phạm khác. Do vậy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo D phạm tội nhằm mục đích kiếm lời nên cần phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 5 triệu đến 7 triệu đồng theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm 0,172 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 0,334 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì kỷ hiệu A2; 01 phong bì ký hiệu LK và 01 ví nâu.

Hoàn trả bị cáo 01 (một) thẻ căn cước công dân số 01907300xxxx mang tên Lê Văn D.

Đối với số tiền 1.400.000 đồng thu giữ của bị cáo và anh Bùi Huy Đ và Phạm Văn D1. Xét thấy, tịch thu sung quỹ Nhà nước của bị cáo D 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng N do bán ma tuý các ngày 28/02 và ngày 01/03/2023 cho Đ mà có. Của anh Bùi Huy Đ và Phạm Văn DI mỗi người 100.000đồng tiền ngân hàng N do số tiền trên đang thực hiện mua ma tuý của bị cáo thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 1.000.000đồng tiền ngân hàng N do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo D.

[7] Về nguồn gốc số Heroine là do bị cáo Lê Văn D khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để điều tra, làm rõ để xử lý.

Đối với hành vi mua Heroine để sử dụng của Bùi Huy Đ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định xử phạt hành chính theo thẩm quyền là phù hợp.

Đối với Phạm Văn D1 là người đi cùng Bùi Huy Đ để mua Heroine của Lê Văn D nhưng chưa mua được nên không xem xét xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa ngày hôm nay là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tun bố: Bị cáo Lê Văn D phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn D 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/03/2023.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự phạt bổ sung bị cáo Lê Văn D 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng gồm 0,172 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 0,334 gam Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2; 01 phong bì ký hiệu LK và 01 chiếc ví mầu nâu.

Hoàn trả bị cáo 01 (một) thẻ căn cước công dân số 01907300xxxx mang tên Lê Văn D.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước của bị cáo Lê Văn D 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng N do bán ma tuý mà có. Của anh Bùi Huy Đ số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) và Phạm Văn D1 100.000đồng (một trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng N vì số tiền trên đang thực hiện hành vi mua ma tuý của bị cáo thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo số tiền 1.000.000đồng (Một triệu đồng) tiền ngân hàng N do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo D.

(Tình trạng vật chứng và số tiền như trong biên bản giao vật chứng ngày 8/8/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ).

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đ và H2 vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về