Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 659/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 659/2022/HS-PT NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 429/2022/TLPT-HS ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Thị Mai X; Do có kháng cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 223/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo bị kháng nghị: Phạm Thị Mai X, sinh năm 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nữ; Nơi đăng ký HKTT: 125/17C đường TĐT, Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 450B/1 đường DBT, Phường 1, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nội trợ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Ngọc S và con bà Cam Thị Bích L; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo không có chồng, có 02 người con (con lớn sinh năm 2008 và con nhỏ sinh năm 2009); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 23/3/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện PN để cai nghiện bắt buộc, đến ngày 27/3/2019, chấp hành xong về địa phương.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/12/2020 (có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Vũ Thanh H – Văn phòng Luật sư VTH, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Trần Trọng T không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 21/12/2020, tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra, Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra đến trước nhà số 82 đường TQB, Phường 3, Quận 8 phát hiện Trần Trọng T điều khiển xe gắn máy biển số 59UA-003.56 có biểu hiện nghi vấn nên dừng xe kiểm tra thì phát hiện và bắt quả tang T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán cho người khác. Vật chứng thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của T 01 gói nylon qua giám định có chứa ma túy thể rắn, có khối lượng 4,9938 gam, loại Methamphetamine.

Mở rộng điều tra vụ án, vào lúc 19 giờ ngày 21/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Quận 8 tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Trọng T và Phạm Thị Mai X tại phòng trọ số 450B/1 đường DBT, Phường 1, Quận 8. Kết quả khám xét thu giữ gồm: Trong tủ quần áo có 01 túi vải màu xám bên trong có 02 gói nylon chứa ma túy thể rắn có tổng khối lượng là 29,0910 gam Methamphetamine; Trong ngăn tủ của bàn trang điểm có: 01 túi vải màu đen, bên trong túi vải có 01 gói nylon chứa ma túy thể rắn, 01 hộp nhựa màu đen bên trong có 01 gói nylon chứa nhiều viên nén màu đỏ, 01 hộp nhựa bên trong có 03 gói nylon chứa ma túy thể rắn, 01 hộp nhựa bên trong chứa ma túy thể rắn và 01 gói nylon chứa ma túy thể rắn có tổng khối lượng là 10,5463 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 23/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 đã ra lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Thị Mai X.

Toàn bộ số ma túy thu giữ được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại Bản kết luận giám định số 161/KLGĐ-H ngày 28/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Kết quả điều tra Trần Trọng T khai nhận: Bắt đầu hoạt động mua bán trái phép chất ma túy từ khoảng tháng 8/2020 cho đến ngày bị bắt. Nguồn ma túy do T mua của 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ lai lịch) tại khu vực đường CS, Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh được khoảng 10 lần. Sau khi mua ma túy, T mang về phòng trọ số 450B/1 đường DBT, Phường 1, Quận 8 cất giấu rồi sử dụng cân điện tử phân nhỏ ma túy ra để bán cho người khác. Ngoài ra, T còn nhờ X (là người chung sống với T như vợ chồng) phụ giúp T trong hoạt động mua bán trái phép chất ma túy. Vào khoảng 14 giờ ngày 21/12/2020, T đang ở nhà số 378/31/4 đường ADV, Phường 4, Quận 5 thì có một người không rõ lai lịch gọi điện thoại cho T số 0902.867.912 hỏi mua 01 hộp 5 ma túy đá (khoảng 5 gam), T báo giá bán là 2.000.000 đồng và hẹn giao dịch tại khu vực đường CL, Quận 8. Sau đó, T điều khiển xe gắn máy biển số 59UA-003-56 đi đến khu vực đường CS, Phường 14, Quận 8 hỏi mua của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá khoảng 05 gam rồi giấu ở túi quận phía trước bên phải, sau đó T mang ma túy về phòng trọ để uống nước và nói chuyện với X được một lúc thì T mang số ma túy vừa mua được đi bán cho người mua, khi T chạy xe đến trước nhà số 82 đường TQB, Phường 3, Quận 8 thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Đối với số ma túy thu giữ trong hộc bàn trang điểm bị thu giữ tại phòng trọ thì T thừa nhận là ma túy do T mua về cất giấu để bán cho người mua, còn số ma túy thu giữ trong tủ quần áo thì T có biết là ma túy cất giấu nhưng T không thừa nhận là ma túy của mình.

Về phía Phạm Thị Mai X khai nhận: T và X sống chung như vợ chồng tại phòng trọ tại địa chỉ số 450B/1 đường DBT, Phường 1, Quận 8 từ khoảng tháng 8/2019 đến ngày bị bắt, ngoài T và X thì không còn ai chung sống tại căn phòng trọ này nữa. Khi dọn đến thuê căn phòng trọ trên để ở thì T và X đã kiểm tra kỹ trong nhà không chứa gì. Quá trình sống chung X biết T có hoạt động mua bán trái phép chất ma túy và X đã phụ giúp T đi giao ma túy cho người mua được khoảng 04 lần, trong đó 02 lần đầu thì X không nhớ rõ thời gian và số lượng ma túy là bao nhiêu, 02 lần cuối là vào khoảng 19 giờ ngày 16/12/2020 và khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/12/2020. Mỗi lần X giao ma túy cho người mua là 01 gói, loại ma túy đá với giá 150.000 đồng tại trước phòng trọ theo yêu cầu của T, tiền bán ma túy X nhận của người mua rồi giao lại cho T. Tất cả số ma túy bị khám xét và thu giữ tại phòng trọ số 450B/1 đường DBT, Phường 1, Quận 8 là của T và X cất giấu để bán. Số ma túy thu giữ trong tủ quần áo gồm 01 túi vải màu xám có chứa 02 gói ma túy thì khoảng 23 giờ của 10 ngày trước khi bị bắt, T có mang về trước cửa phòng trọ đưa cho X để cất giấu vào trong tủ quần áo, T có nhìn thấy X cất giấu số ma túy này.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Tại phần đầu phiên tòa, bị cáo X thừa nhận số ma túy 29,091 gam Methamphetamine thu giữ trong tủ quần áo của phòng trọ là của bị cáo T đưa cho bị cáo X cất giữ, nhưng sau đó bị cáo X lại thay đổi lời khai cho rằng số ma túy 29,091 gam Methamphetamine nêu trên là của bị cáo X, do bị cáo X mua nhưng không nhớ mua khi nào, mua của ai và đem về phòng trọ cất giấu trong tủ quần áo.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 223/2022/HS-ST ngày 20/5/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

1. Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Trần Trọng T 18 (mười tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2020.

Xử phạt bổ sung: Buộc Trần Trọng T phải nộp số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.

2. Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Phạm Thị Mai X 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2020.

Xử phạt bổ sung: Buộc Phạm Thị Mai X phải nộp số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 01/6/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VKS-P1 đối với bản án hình sự sơ thẩm. Việc Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm nhận định bị cáo Phạm Thị Mai X có thái độ khai báo thành khẩn, có 02 con nhỏ, phạm tội do lệ thuộc bị cáo Trần Trọng T, từ đó áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo X là không có căn cứ và không đúng quy định của pháp luật, bởi lẽ:

- Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo X liên tục thay đổi lời khai, cố tình khai báo gian dối mục đích để bao che, làm giảm nhẹ hành vi phạm tội của bị cáo T, gây khó khăn cho việc đấu tranh làm rõ bản chất hành vi phạm tội của bị cáo T.

- Trong vụ án, bị cáo X là đồng phạm giúp sức tích cực cho bị cáo T và là người trực tiếp thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy; X cùng với T thuê nhà sống chung như vợ chồng, để cùng nhau sử dụng và mua bán ma túy…Cho thấy X phạm tội là do tự nguyện, không phải vì phụ thuộc vào bị cáo T.

Mặc dù X có 02 con nhưng cả hai đều đã trên 36 tháng tuổi (một con sinh năm 2008 và 01 con sinh năm 2009), bị cáo X không phải là người trực tiếp nuôi con.

Ngoài ra, X có 01 tiền sự bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ ngày 23/3/2018 đến 27/3/2019 thì chấp hành xong. Nhưng vừa trở về địa phương X lại thực hiện hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nghiệm trọng hơn, cho thấy thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, mặc dù khối lượng ma túy mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo X là ít hơn so với bị cáo T, tuy nhiên việc Tòa sơ thẩm xử phạt X mức án đầu khung hình phạt, dưới mức đề nghị của Viện kiểm sát và cách xa hình phạt đã tuyên đối với bị cáo T (khoảng cách 03 năm) là không tương xứng với nhân thân, vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo X trong vụ án; chưa thể hiện được tính đồng bộ, tính nghiêm minh trong việc áp dụng pháp luật và không có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo X.

Bởi các lẽ trên: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Thị Mai X; Tăng hình phạt đối với Phạm Thị Mai X lên trên mức khởi điểm 15 năm tù của khung hình phạt truy tố.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo Phạm Thị Mai X thừa nhận nội dung diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo như án sơ thẩm đã tuyên; Tòa sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phep chất ma túy” và xử bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội không oan sai.

Trong quá trình điều tra và tại phần đầu của phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận số ma túy 29,091 gam Methamphetamine thu giữ trong tủ quần áo của phòng trọ là của bị cáo T đưa cho bị cáo X cất giữ nhưng sau đó bị cáo X lại thay đổi lời khai cho rằng số ma túy 29,091 gam Methamphetamine nêu trên là của bị cáo X, do bị cáo X mua nhưng không nhớ mua khi nào, mua của ai và đem về phòng trọ cất giấu trong tủ quần áo. Việc bị cáo thay đổi lời khai là do suy nghĩ nông cạn là nhận về mình để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T, sau khi có quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát bị cáo hiểu được việc làm của mình là sai trái, bị cáo cảm thấy ăn năn, hối hận. Vì thế, tại cấp phúc thẩm hôm nay bị cáo X thừa nhận số ma túy 29,091 gam Methamphetamine thu giữ trong tủ quần áo của phòng trọ là của bị cáo T đưa cho bị cáo X cất giữ và bị cáo xin Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 33/QĐ-VKS-P1 ngày 01/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như nêu trên là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm mặc dù bị cáo thừa nhận số số ma túy 29,091 gam Methamphetamine thu giữ trong tủ quần áo của phòng trọ là của bị cáo T đưa cho bị cáo X cất giữ nhưng cũng không đủ căn cứ thể hiện sự thật thà khai báo của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, không cho bị cáo X hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và đề nghị xử tăng hình phạt đối với bị cáo X với mức hình phạt từ 16 đến 17 năm tù.

- Luật sư H bào chữa cho bị cáo Phạm Thị Mai X trình bày: Luật sư đồng ý với tội danh và khung hình phạt như đại diện Viện kiểm sát nêu, tuy nhiên bị cáo X phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo T, bản thân bị cáo là người sống chung như vợ chồng với bị cáo T nên phụ thuộc rất nhiều vào bị cáo T. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 58 Bộ luật hình sự để phân hóa vai trò và quyết định hình phạt đối với bị cáo X. Đồng thời, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trong suốt quá trình điều tra đến phần đầu phiên tòa sơ thẩm và nay tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thật thà khai báo thừa nhận số ma túy 29,091 gam Methamphetamine thu giữ trong tủ quần áo của phòng trọ là của bị cáo T đưa cho bị cáo X cất giữ. Điều đó thể hiện bị cáo X có thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải, nhưng khi đối diện với bị cáo T thì bị cáo X đã phần nào bị tác động nên bị cáo thay đổi lời khai theo hướng chỉ có lợi cho bị cáo T. Tuy vậy, cũng nên cho bị cáo X được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và bản thân bị cáo X còn có 02 con nhỏ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên án sơ thẩm.

Bị cáo đồng ý với nội dung bào chữa của luật sư, không có ý kiến bổ sung, không tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo X thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên. Ngoài ra bị cáo cho rằng sau khi có quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát thì bị cáo biết được sai trái của mình, bị cáo ăn năn hối hận nên khai nhận số ma túy 29,091 gam Methamphetamine thu giữ trong tủ quần áo của phòng trọ là của bị cáo T đưa cho bị cáo X cất giữ chứ không phải như lời khai mà Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát đã nêu.

Với lời khai như vừa nêu của bị cáo X nên Hội đồng xét xử thấy rằng: Nhận định của kháng nghị phúc thẩm là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, song, do tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo X đã thật thà khai báo và nhận thấy ăn năn, hối cải với hành vi khai báo sai trái như tại phiên tòa sơ thẩm, việc thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm cùng điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bị cáo nên Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo vẫn đủ điều kiện để được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đồng thời với số lượng ma túy của từng bị cáo, trong đó bị cáo T phải chịu trách nhiệm toàn bộ số ma túy thu giữ khi bị bắt quả tang và ma túy thu giữ tại nơi ở của T – X, có tổng khối lượng là 44,6311gam Methamphetamine; bị cáo Phạm Thị Mai X phải chịu trách nhiệm đối với số ma túy thu giữ tại nơi ở của T - X có tổng khối lượng ma túy là 39,6373gam Methamphetamine. Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo T mức án 18 năm tù và bị cáo X 15 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự là đã tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên án sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.

[4] Quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự của bị cáo Trần Trọng T, về xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Giữ nguyên án Bản án sơ thẩm số 223/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

1. Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Mai X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Phạm Thị Mai X 15 (mười lăm) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo theo Quyết định giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bổ sung: Buộc Phạm Thị Mai X phải nộp số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Thị Mai X không phải nộp.

3. Quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự của bị cáo Trần Trọng T, về xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 659/2022/HS-PT

Số hiệu:659/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về