Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 59/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 59/2024/HS-ST NGÀY 15/04/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2024/TLST-HS, ngày 14 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2024/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tẩn Láo S, sinh năm 1976, tại huyện P, tỉnh Lai Châu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản S, xã D, huyện P, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 0/12 (Không biết chữ); dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Tẩn Phủ L, đã chết; mẹ đẻ: Lý Tả M, đã chết; bị cáo không có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2023 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ, ngày 23/12/2023, Tẩn Láo S đi bộ tại khu vực bản Hợp 2, xã Dào San, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu thì gặp một người đàn ông tên là D nhờ S cầm Heroine đi bán giúp và trả công cho S số tiền 200.000 đồng. Do bản thân nghiện ma túy, không có tiền nên S đồng ý đi bán Heroine cho D. D đưa cho S 01 lọ nhựa hình trụ màu trong suốt nắp màu xanh, bên trong lọ nhựa có gói Heroine được gói bằng nilon màu đen túm xoắn lại và số tiền 200.000 đồng, là tiền D trả công cho S. Sau đó, S đi bộ lên đường lên bản U Ní Chải, xã Dào San để tìm người mua Heroine. Tại đây, S bán cho 01 người thanh niên không rõ lai lịch cụ thể 01 cục Heroine nhỏ trong số Heroine trong lọ nhựa mà S đang cầm, lấy số tiền 50.000 đồng. Nhận Heroine người thanh niên đi đâu thì S không biết. Số Heroine còn lại S lại cất giấu vào túi quần đang mặc rồi tiếp tục đi tìm người mua Heroine. Vào hồi 10 giờ 20 phút, ngày 23/12/2023, khi S đang đi trên đường thuộc bản U Ní Chải, xã Dào San, huyện Phong Thổ để tìm người mua Heroine thì bị lực lượng Công an xã Dào San phối hợp với Công an xã Tung Qua Lìn phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng đã thu giữ do Tẩn Láo S giao nộp: 01 lọ nhựa hình trụ màu trong suốt, có nắp màu xanh, bên trong là 01 gói nilon màu đen được xoắn lại, bên trong gói nilon là chất bột màu trắng, dạng cục; số tiền 250.000 đồng. Tẩn Láo S khai nhận số chất bột màu trắng đó là Heroine của một người đàn ông tên là D thuê S bán. Số tiền 250.000 đồng là tiền S được trả công 200.000 đồng và tiền S đã bán Heroine được 50.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số: 29/KL- GĐVV, ngày 23/12/2023, của người giám định tư pháp theo vụ việc, kết luận: Gói chất bột màu trắng, dạng cục được gói bằng nilon màu đen túm xoắn lại, có khối lượng: 0,36 gam.

Bản Kết luận giám định số: 61/KL-KTHS, ngày 27/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: 01 Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa hoạc là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)Nghị định số: 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022, của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Bản Kết luận giám định số: 58/GĐ-KTHS ngày 27/12/2023, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: 250.000 đồng tiền Việt Nam bao gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng có mã số hiệu: BI 19489496 và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có mã số hiệu: NO 16467826 gửi giám định là tiền thật.

Tại bản Cáo trạng số: 14/CT-VKS, ngày 14 tháng 3 năm 2024, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Tẩn Láo S về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng. Phần luận tội, kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Tẩn Láo S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Về hình phạt, áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 (Hai) năm, 06 (sáu) tháng đến 02 (Hai) năm, 09 (Chín) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,32 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 lọ nhựa trong suốt có nắp màu xanh, 01 mảnh ni lon màu đen và vỏ niêm phong vật chứng. Trả lại cho bị cáo số tiền 250.000 đồng. Đối với 0,04 gam Heroine trích trong tổng số Heroine thu của bị cáo đã gửi đi giám định không hoàn lại, không đề cập giải quyết. Về án phí, áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng và không có tranh luận gì với luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội mà bị cáo Tẩn Láo S đã thực hiện:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong vật chứng, các kết luận giám định, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 10 giờ 20 phút, ngày 23/12/2023, tại khu vực bản U Ní Chải, xã Dào San, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, tổ công tác Công an xã Dào San phối hợp với Công an xã Tung Qua Lìn đã phát hiện, bắt quả tang Tẩn Láo S đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,36 gam. Tẩn Láo S khai nhận, chất bột màu trắng là Heroine do S mang đi bán để lấy tiền công.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo nhận thức được rõ Heroine là một loại ma túy, chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân gây mất trật tự xã hội và làm phát sinh tội phạm khác. Bị cáo biết rõ hành vi mua bán phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Tình tiết liên quan đến vụ án:

Bị cáo khai số chất ma túy bị thu giữ là của một người đàn ông tên là D, không rõ lai lịch cụ thể, đã đưa cho bị cáo và thuê bị cáo bán. Ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có cơ sở để xác minh, điều tra làm rõ hành vi của người đàn ông này.

Việc bị cáo khai vào ngày 23/12/2023 đã bán Heroine cho một người thanh niên lấy số tiền 50.000 nhưng bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ của này. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xác minh, điều tra làm rõ người thanh niên đã mua Heroine của bị cáo và buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về lần mua bán này.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời để góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân và đảm bảo công tác phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo theo khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng: Số Heroine thu giữ của bị cáo đã được gửi đi giám định còn lại 0,32 gam, là vật cấm lưu hành và 01 lọ nhựa, 01 mảnh nilon màu xanh, vỏ niêm phong là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 250.000 đồng thu của bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo ra không có chứng cứ nào khác chứng minh đây là số tiền bị cáo được trả công và tiền bị cáo bán Heroine mà có nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với 0,04 gam Heroine trích trong tổng số Heroine thu của bị cáo đã gửi đi giám định không hoàn lại, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo xin được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm nên cần miễn án phí cho bị cáo theo điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt đối với các bị cáo và về phần xử lý vật chứng là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, các Điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố:

1. Bị cáo Tẩn Láo S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Tẩn Láo S: 02 (Hai) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2023.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 0,32 gam Heroine còn lại sau giám định; 01 lọ nhựa trong suốt có nắp màu xanh; 01 mảnh nilon màu đen và vỏ niêm phong vỏ niêm phong vật chứng.

Trả lại cho bị cáo số tiền: 250.000 đồng.

(Toàn bộ vật chứng hiện đang được lưu tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí: Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 59/2024/HS-ST

Số hiệu:59/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về