Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 587/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 587/2023/HS-PT NGÀY 23/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa trực tuyến xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 369/2023/TLPT-HS ngày 24 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn R. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn R đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 165/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Phiên tòa phúc thẩm trực tuyến được tiến hành ở hai điểm cầu. Điểm cầu trung tâm là Phòng xử án của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh gồm có: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát và Luật sư Hoàng Anh S, Luật sư Nguyễn Đăng D là người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn R; Đ cầu thành phần là Phòng xử án tại Trại tạm giam Công an Thành phố H (T30) gồm có: Bị cáo Nguyễn Văn R.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Nguyễn Văn R; giới tính: Nam; sinh ngày 10/9/1987; tại: Trà Vinh; Nơi đăng ký thường trú: Ấp R, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh Vinh; chỗ ở: Phòng thuê 306, nhà trọ số G, đường H, phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Anh S và ông Nguyễn Đăng D1 là Luật sư của Công ty L thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/12/2021, tại trước số A đường N, Phường A, quận G, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận G phối hợp Công an P, quận G bắt quả tang Nguyễn Văn R đang điều khiển xe mô tô biến số 50H-39xx có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán, thu giữ bên trong quần lót của Rực 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 48,0903 gam, loại Methamphetamine (Bản Kết luận giám định số 302/KLGĐ-MT ngày 05/01/2022 của Phòng K, Công an Thành phố H, BL số 45).

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn R khai nhận sử dụng ma túy từ tháng 12/2021 và có quen biết với một người đàn ông tên C (không rõ lai lịch). Rực đã mua ma túy của C được 02 lần để sử dụng. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 28/12/2021, một người phụ nữ tên N1 (R khai người này tên thật là Nguyễn Thị Thu C1, chỗ ở: Phòng 518, nhà T số G đường H, phường H, Quận A) gọi điện nhờ R mua giùm 13.000.000 đồng ma túy đá để bán cho khách. R đồng ý và gọi cho C đặt mua ma túy, thỏa thuận giao dịch tại khu vực ngã tư A, quốc lộ B, Quận A. Sau đó, R báo cho N1 và nhận từ N1 13.000.000 đồng rồi đi đến điểm hẹn mua ma túy với C. Sau khi thanh toán tiền và nhận ma túy từ C, R để ma túy vào bên trong quần lót đang mặc rồi di chuyển về nhà trọ Green House gặp N1. Tại đây N1 nói R chở N1 đi giao ma túy cho khách, N1sẽ trả công cho R 1.000.000 đồng. Rực đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 50H-39xx chở N1 đi bán ma túy, khi đến khu vực đường N, quận G, N1 nói R dừng lại để N1 đi đến gần đó gặp khách trước. Khi đang đợi N1 thì R bị phát hiện bắt giữ.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, kết quả tại Phòng số 518 nhà trọ G đường H, phường H, Quận A không có người tên Nguyễn Thị Thu C1 hoặc tên N1 cư trú; đối với đối tượng tên C do R khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh xử lý đối với N1 và C.

Vật chứng của vụ án: Đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 435/PNK/2022 ngày 13/12/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) và Phòng Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC 10), Công an Thành phố H.

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 17/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Văn R, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 165/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn R 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2021.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28 tháng 4 năm 2023, bị cáo Nguyễn Văn R làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù giam là quá nặng, xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thm:

Bị cáo vẫn còn kháng cáo và trình bày có các tình tiết giảm nhẹ như chủ động phối hợp với cơ quan điều tra cung cấp chứng cứ, số điện thoại của các đối tượng khác; gia đình có công với cách mạng.

Tại phiên tòa bị cáo khai rằng số ma túy do N1 cất giữ khi đến khách sạn thì N1 mới đưa lại cho bị cáo cất giữ. Vì vậy, bị cáo chỉ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chứ không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày, bị cáo là người giúp sức cho đối tượng C bán ma túy cho N1. Bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra, nhân thân tốt, gia đình có công với cách mạng, không hưởng lợi ích gì. Đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng phiên tòa để gia đình bị cáo nộp số tiền phạt bổ sung.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28 tháng 4 năm 2023, bị cáo Nguyễn Văn R có làm đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo làm và nộp trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:

[2.1] Bị cáo Nguyễn Văn R đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Bản cáo trạng đã truy tố và bản án sơ thẩm đã quy kết, trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/12/2021, tại trước số A đường N, Phường A, quận G, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận G phối hợp Công an P, quận G bắt quả tang Nguyễn Văn R đang điều khiển xe mô tô biển số 50H-39xx có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán, thu giữ bên trong quần lót của Rực 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 48,0903 gam, loại Methamphetamine để bán cho người khác. Bị cáo là người được N1 đưa tiền mua ma túy và chở N1 đi giao ma túy (bán cho người khác). Bị cáo ý thức được rằng số ma túy bị cáo vận chuyển là để bán cho con nghiện, thực tế cũng không xác định được đối tượng tên N1 là ai.

[2.2] Đối chiếu với trường hợp phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn R đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo R theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn R là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác.

[2.3] Xét kháng cáo của bị cáo R, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo R với mức án 15 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là phù hợp với quy định của pháp luật như đã viện dẫn, trong đó đã có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Những tình tiết giảm nhẹ này được pháp luật quy định tại diêm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng phiên tòa để gia đình bị cáo nộp phạt bổ sung 10.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi xét xử sơ thẩm đến nay gia đình bị cáo có thời gian để thực hiện nhưng không nộp phạt; Mặt khác, việc nộp phạt bổ sung chỉ là thực hiện nghĩa vụ theo bản án sơ thẩm đã tuyên nên Hội đồng xét xử không tạm dừng phiên tòa.

[3] Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đông xét xử nên được chấp nhận.

[4] Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn R về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 165/2023/HS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn R 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2021.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn R phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 587/2023/HS-PT

Số hiệu:587/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về