TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 585/2022/HS-PT NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 494/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2022/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn T sinh ngày 26 tháng 6 năm 1997 tại Đà Nẵng. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thành phố Đà N; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; con ông Nguyễn L và bà Lê Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Ái V và 01 con là Nguyễn Anh T (sinh năm: 2021); Tiền án: chưa.
Tiền sự:
- Ngày 12/7/2015: Công an phường N xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi ngàn đồng) về hành vi “Đánh nhau”.
- Ngày 28/02/2019: Công an phường M xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi ngàn đồng) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Ngày 17/01/2022: Công an phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Ngày 25/4/2022: Công an phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2022.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T: Ông Bùi Xuân N, Luật sư Công ty Luật TNHH MTV A, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng.
- Ngoài ra trong vụ án còn có người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 21/4/2022, tại phía trước nhà ở kiệt 839 đường L, thuộc phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng, Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Miền trung phối hợp với Đồn Biên phòng Hải Vân và Phòng phòng chống ma túy và tội phạm – Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng, tiến hành bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T, thu giữ gồm:
- 01 (một) gói nilon màu trắng kích thước (7x11)cm bên trong chứa 50 (năm mươi) viên nén màu xanh nhạt hình tam giác, có in hình chữ T và các chữ nhỏ không nhìn rõ; 50 (năm mươi) viên nén màu xanh đậm, hình vuông in nổi hình vuông và hình tròn. Được niêm phong theo quy định của pháp luật, kí hiệu: G1;
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trắng đã qua sử dụng gắn sim 1: 0903618443, sim 2: 0901858595, số Imel 1:
357715103365401, số Imel 2: 357715104365400;
- 01 (một) điện thoại di động màu xám, mặt sau in hình quả táo hở gắn sim: 0901644443, số Imel: 353827102093886;
- 01 (một) xe mô tô hiệu Air Blade màu đỏ đen biển số: 43F1-340.47, Số máy: JF63E1225903, số khung: 6307FZ678931.
* Lúc 18 giờ 30 ngày 21/4/2022, Đồn Biên phòng Hải Vân - Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T tại phòng trọ thuộc tổ 33, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng. Thu giữ gồm:
- 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (16x10)cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng; 07 (bảy) gói nilong đều có kích thước khoảng (13x8)cm bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) nilong màu trắng kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (15x9)cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng. Được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu: G2;
- 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (13x8)cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng mờ và 05 (năm) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (11x7)cm bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể rắn màu trắng mờ. Được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu: G3;
- 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (15x9)cm bên trong chứa 300 (ba trăm) viên nén màu hồng hình trái tim; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa 198 (một trăm chín mươi tám) viên nén màu hồng hình trái tim; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x4)cm bên trong chứa 68 (sáu mươi tám) viên nén màu hồng hình trái tim; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa 22 (hai mươi hai) viên nén màu hồng hình trái tim; 03 (ba) gói nilong màu trắng đều có kích thước khoảng (13x8)cm bên trong mỗi gói đều chứa 200 (hai trăm) viên nén màu xanh đậm hình vuông, có in nổi hình vuông và tròn; 01 (một) gói nilong chứa 150 (một trăm năm mươi) viên nén màu xanh đậm hình vuông, có in nổi hình vuông và tròn; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa 195 (một trăm chín mươi lăm) viên nén màu xanh nhạt hình tam giác in hình chữ T và các chữ nhỏ không rõ; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa 100 (một trăm) viên nén nén màu xanh nhạt hình tam giác in hình chữ T và các chữ nhỏ không rõ; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa 99 (chín mươi chín) viên nén nén màu xanh nhạt hình tam giác in hình chữ T và các chữ nhỏ không rõ; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (11x7)cm bên trong chứa 50 (năm mươi) viên nén màu xanh nhạt hình tam giác in hình chữ T và các chữ nhỏ không rõ; 01 (một) gói nilong kích thước khoảng (8x5)cm bên trong chứa 20 (hai mươi) viên nén nén màu xanh nhạt hình tam giác in hình chữ T và các chữ nhỏ không rõ. Được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu: G4;
- 01 (một) gói nilong màu xanh có kích thước khoảng (8,5x6)cm bên trong chứa 167 (một trăm sáu bảy) viên nén hình tròn màu hồng có in chữ WY và 02 (hai) viên nén hình tròn màu xanh nhạt in chữ A. Được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu: G5;
- 01 (một) bao đựng hàng màu vàng in chữ Big C có kích thước khoảng (20x40x40)cm;
- 01 (một) cân điện tử màu đen trắng;
- 01 (một) gói nilong màu vàng bên trong chứa nhiều bao nilong với kích thước khác nhau.
* Kết luận giám định số: 75/KLMT - KTHS ngày 27/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận:
- Mẫu viên nén đựng trong gói niêm phong ký hiệu G1, G4 gửi giám định đều là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu G1a: 16,407 gam; G1b: 14,903 gam, G4a: 155,478 gam; G4b: 221,04 gam; G4c: 205,40 gam.
- Mẫu viên nén đựng trong gói niêm phong ký hiệu G5 gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng mẫu G5a: 17,197 gam; G5b:
0,192 gam.
- Chất tinh thể rắn màu trắng đựng trong gói niêm phong ký hiệu G2 gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng mẫu G2: 921,15 gam.
- Chất tinh thể rắn màu trắng đựng trong gói niêm phong ký hiệu G3 gửi giám định đều là ma túy, loại Ketamine; khối lượng mẫu G3: 344,00 gam.
Quá trình điều tra xác định:
Khoảng tháng 4/2021, thông qua mối quan hệ ngoài xã hội, Nguyễn Văn T quen biết với nam thanh niên tên “C” (không rõ nhân thân, lai lịch, sử dụng số điện thoại 0777360921) có bán ma túy nên T đặt vấn đề với C sẽ tham gia bán ma túy giúp C với mục đích kiếm tiền. C đồng ý và thống nhất giao ma túy cho T cất giữ, khi nào có khách mua ma túy của C thì C cho số điện thoại người mua, số lượng ma túy đặt mua rồi T dùng cân điện tử để phân chia ma túy Ketamine và lấy ma túy thuốc lắc đã được chia sẵn để đi giao. Còn giá cả mua ma túy và cách thức thanh toán tiền thì C và người mua tự thỏa thuận, thống nhất, T không nhận tiền. T hưởng lợi từ việc giao ma túy cho C sau mỗi lần giao dịch thành công là 5.000.000đ (năm triệu đồng). Nếu T giao ma túy thành công cho người mua số lượng lớn thì C sẽ cho thêm tiền công. Ngoài ra, C nói với T, khi nào T cần sử dụng ma túy thì tự lấy số ma túy mà C đưa để sử dụng. T đã nhận ma túy của C 02 (hai) lần, cụ thể:
Lần 1: Khoảng tháng 12/2021, C điện thoại cho T số 0903618443 chỉ đạo T đến giữa cầu Thuận Phước, TP. Đà Nẵng để lấy ma túy. Sau đó, T điều khiển xe mô tô BKS: 43F1-340.47 một mình đến điểm hẹn. Tại đây, C đưa cho T gói nilong màu xám bên trong có chứa 09 (chín) lạng ma túy đá, 01 (một) cân điện tử màu đen trắng và 01 (một) gói nilong màu vàng bên trong chứa nhiều gói nilong có kích thước khác nhau, T mang ma túy về cất giấu trên trần mái nhà phòng của T ở nhờ nhà cô ruột là Nguyễn Thị Chiêm (SN: 1968, HKTT: Tổ 33, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng) tại kiệt 839 đường L thuộc tổ 33, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng.
Lần 2: Khoảng tháng 02/2022, C điện thoại cho T số 0903618443 chỉ đạo T đến giữa cầu Thuận Phước, TP. Đà Nẵng để lấy ma túy. Sau đó, T điều khiển xe mô tô BKS: 43F1-340.47 một mình đến điểm hẹn. Tại đây, C đưa cho T gói nilong màu xám bên trong có 2.400 (hai ngàn bốn trăm) viên ma túy thuốc lắc, 06 (sáu) gói Ketamine và 01 (một) gói ma túy hồng phiến (không biết số lượng bao nhiêu). T cầm gói nilong chứa ma túy về cất giấu trên trần mái phòng của T cùng với số ma túy đá rồi bỏ tất cả vào trong bao đựng hàng màu vàng in chữ Big C.
Theo chỉ đạo của C thì T đã đi giao bán ma túy cho những người sau:
1/ Nam thanh niên tên “L” (không rõ nhân thân, lai lịch, dùng số điện thoại 0762011082) 02 ( hai) lần:
Lần 1: Khoảng ngày 14/4/2022, T mang 100 (một trăm) viên ma túy thuốc lắc đặt ở dưới trụ điện phía sau khu du lịch M, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng và gọi điện cho L chỉ vị trí đến lấy.
Lần 2: Khoảng 15 giờ 00 ngày 21/4/2022, C gọi điện cho T chỉ đạo lấy 100 (một trăm) viên ma túy thuốc lắc giao cho L ở phía sau khu du lịch M, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng. Sau đó, T điều khiển xe mô tô BKS: 43F1-340.47 một mình đến nơi cất giấu ma túy lấy gói nilong chứa 100 (một trăm) viên ma túy thuốc lắc bỏ vào trong túi quần bên phải phía trước của T nhưng khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày T vừa đi ra khỏi phòng đến kiệt 839 đường L, TP. Đà Nẵng thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang và thu giữ số ma túy này.
2/ Nam thanh niên tên H (không rõ nhân thân, lai lịch, không nhớ số điện thoại) 03 (ba) lần:
Lần 1: Khoảng ngày 04/4/2022, T mang 100 (một trăm) viên ma túy thuốc lắc đặt ở trên đường bê tông khu vực đường N nối dài, TP. Đà Nẵng và gọi điện cho H chỉ vị trí đến lấy.
Lần 2: Khoảng ngày 05/4/2022, T mang 0,5 lạng ma túy Ketamine đặt ở đường bê tông khu du lịch M, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng và gọi điện cho H chỉ vị trí đến lấy.
Lần 3: Khoảng ngày 17/4/2022, T mang 01 (một) lạng ma túy Ketamine đặt ở đường bê tông khu vực đường N, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng và gọi điện cho H chỉ vị trí đến lấy.
3/ Nam thanh niên tên Tâm (không rõ nhân thân, lai lịch, không nhớ số điện thoại) 01 (một) lần:
Khoảng ngày 14/4/2022, T mang 100 (một trăm) viên ma túy thuốc lắc đặt tại dưới trụ điện phía sau khu du lịch M, P. N, Q. L, TP. Đà Nẵng và gọi điện cho Tâm chỉ vị trí để đến lấy.
4/ Nam thanh niên không nhớ tên (không rõ nhân thân, lai lịch, không nhớ số điện thoại) 01 (một) lần:
Khoảng ngày 16/4/2022, T mang 100 (một) trăm viên ma túy thuốc lắc và 1,5 (một phẩy năm) lạng ma túy Ketamine đặt ở đường bê tông khu vực đường N nối dài, TP. Đà Nẵng và gọi điện cho Nam thanh niên chỉ vị trí đến lấy.
Ngoài ra, trong số ma túy mà T cất giấu để bán thì T đã lấy 98 (chín mươi tám) viên ma túy thuốc lắc và ma túy Ketamine (không rõ số lượng bao nhiêu) để sử dụng nhiều lần cùng bạn bè quen biết ngoài xã hội (không rõ nhân thân, lai lịch, không nhớ số lần sử dụng) tại các quán Karaoke trên địa bàn quận L, thành phố Đà Nẵng (không nhớ tên quán, không nhớ địa chỉ cụ thể). Số tiền C đã trả công bằng tiền mặt cho T là 50.000.000₫ (năm mươi triệu đồng) từ việc giúp C cất giữ và đi giao bán ma túy cho người mua thì T đã tiêu xài hết.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 83/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52, Điều 40 của Bộ luật Hình sự; khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn T tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày án có hiệu lực bị cáo có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước để xin ân giảm án tử hình.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, về án phí và thông báo về quyền kháng cáo.
Ngày 28-9-2022, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo, cũng như bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm, chỉ xin HĐXX cấp phúc thẩm xem xét tha tội chết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 và xử phạt bị cáo với mức án tử hình là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận: Ngày 21/4/2022, tại kiệt 839 đường L, phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng, Đoàn Đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Miền trung phối hợp với Đồn Biên phòng Hải Vân và Phòng phòng chống ma túy và tội phạm – Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng tiến hành bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T, thu giữ 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa 50 (năm mươi) viên nén màu xanh nhạt và 50 (năm mươi) viên nén màu xanh đậm. Quá trình khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T thu giữ: 10 gói nilong bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng; 06 gói nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng mờ; 01 gói nilong bên trong chứa 300 viên nén màu hồng hình trái tim; 01 gói nilong bên trong chứa 198 viên nén màu hồng hình trái tim; 01 gói nilong bên trong chứa 68 viên nén màu hồng hình trái tim; 01 gói nilong bên trong chứa 22 viên nén màu hồng hình trái tim; 03 (ba) gói nilong màu trắng bên trong mỗi gói đều chứa 200 viên nén màu xanh đậm hình vuông; 01 gói nilong chứa 150 viên nén màu xanh đậm hình vuông; 01 gói nilong bên trong chứa 195 (một trăm chín mươi lăm) viên nén màu xanh nhạt; 01 gói nilong bên trong chứa 100 viên nén màu xanh nhạt; 01 gói nilong bên trong chứa 99 viên nén màu xanh nhạt; 01 gói nilong bên trong chứa 50 viên nén màu xanh nhạt; 01 gói nilong bên trong chứa 20 viên nén màu xanh nhạt; 01 gói nilong màu xanh bên trong chứa 167 viên nén hình tròn màu hồng và 02 viên nén hình tròn màu xanh nhạt.
Quá trình điều tra xác định: Từ tháng 4/2021 đến tháng 4/2022, bị cáo đã móc nối với một người tên C nhận ma túy để tổ chức việc mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người khác. Tại Kết luận giám định số: 75/KLMT - KTHS ngày 27/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng thể hiện: Số ma túy thu giữ trên người và ở nơi cất giấu có tổng khối lượng ma túy loại MDMA: 613,228 gam; ma túy loại Methamphetamine: 938,539 gam; ma túy loại Ketamine: 344,00 gam.
Như vậy Bản án hình sự sơ thẩm số: 83/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, trước đó, bị cáo đã nhiều lần bị xử lý hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và đánh nhau.
Trong lần phạm tội này, tính chất vụ án đặc biệt nghiêm trọng hơn. Chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo đã mua bán trái phép nhiều loại chất ma túy, cơ quan chức năng đã bắt quả tang và thu giữ 1.895,767g ma túy các loại với số lượng rất lớn. Ngoài 400 viên ma túy loại thuốc lắc và 300 gam ma túy loại ketamine bị cáo đã bán cho nhiều người khác và chưa kể số ma túy (98 viên thuốc lắc và 01 số ketamine) bị cáo khai nhận. Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền của nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. HĐXX sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc cải tạo giáo dục bị cáo là không thể thực hiện được nên tuyên xử bị cáo mức án tử hình là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không xuất trình được tài liệu chứng cứ gì mới. Đại diện VKSCC đề nghị bác kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là có căn cứ. HĐXX không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 40 của Bộ luật Hình sự; khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày án có hiệu lực bị cáo có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước để xin ân giảm án tử hình.
2. Án phí HSPT: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 585/2022/HS-PT
Số hiệu: | 585/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về