Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 54/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2023/TLST- HS ngày 03 tháng 8 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

- Họ tên: Vũ Đình Th (Tên gọi khác: Không có); Sinh ngày: 03/5/1968 tại Thanh Sơn, Phú Thọ; Nơi ĐKNKTT: Khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Đình Đ (Đã chết) và bà: Nguyễn Thị S (Đã chết); Vợ con: không có; Tiền án: Có 01 tiền án; Bản án số 15/HSST ngày 10/3/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử phạt Vũ Đình T 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 28/6/2019, T đã chấp hành xong án phạt tù. Căn cứ điểm d, khoản 2, Điều 70 Bộ luật hình sự xác định T chưa được xóa án tích; Tiền sự: không; Nhân thân bị cáo: Bản án số 14/HSST ngày 24/3/2003 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xử phạt T 36 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị tạm từ ngày 21/4/2023 đến ngày 27/4/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 21/4/2023, Công an xã Võ Miếu đang thực hiện nhiệm vụ tại khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn thì phát hiện kiểm tra Vũ Đình T, (sinh ngày 03/5/1968, thường trú: khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) có biểu hiện liên quan đến ma túy, Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện Vũ Đình T có hành vi tàng trữ 01 gói giấy mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng; Vũ Đình T khai nhận đây là ma túy Heroine. Công an xã Võ Miếu đã tiến hành niêm phong 01 gói ma túy của Vũ Đình T vào một bì giấy dán kín để phục vụ giám định và thu giữ số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105 màu đen, đã cũ, bên trong gắn sim của số điện thoại 0865.T.102. T khai đây là điện thoại đã sử dụng để liên lạc với anh Hoàng Đình T, (sinh năm 1970, thường trú xóm Sang Vường, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) để trao đổi nội dung mua bán ma túy.

Xét thấy có dấu hiệu của tội phạm, ngày 21/4/2023, Công an xã Võ Miếu đã ra Quyết định chuyển hồ sơ có dấu hiệu của tội phạm cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 22/4/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Đình T tại khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết quả: Không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Ngày 21/4/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ giám định vật chứng thu giữ của Vũ Đình T. Tại Bản kết luận giám định số 527/KL-KTHS ngày 24/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Chất bột, cục màu trắng chứa bên trong 01 gói giấy gửi đến giám định có khối lượng là: 0,239gam; là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Hoàn lại đối tượng giám định: 0,124 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong dán kín trong 01 túi niêm phong, bên ngoài túi niêm phong có đóng 03 dấu hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.

Ngày 22/4/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã tiến hành triệu tập, làm việc với Hoàng Đình T, quá trình làm việc, T khai nhận: Khoảng 11 giờ 05 phút ngày 21/4/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh gắn sim số 0967.T.813 gọi đến số điện thoại củaVũ Đình T để hỏi mua ma túy loại Heroine với số tiền 200.000 đồng thì được T đồng ý và hẹn đến khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó, T đi bộ đến khu vực đã hẹn và gặp T đang đứng một mình, tại đây T đưa cho T 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. T nhận tiền và đưa cho T 01 gói ma túy được gói bằng giấy có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng. Sau khi nhận được ma túy, T đã đi về nhà và sử dụng một mình hết số ma túy trên bằng cách đốt, hít.

Ngày 22/4/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Đình T tại khu xóm Sang Vường, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết quả: Không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Qua kiểm tra mục điện thoại các cuộc gọi đến và đi vào ngày 21/4/2023 từ chủ thuê bao số 0965.T.102 của Vũ Đình T đến số điện thoại 0967.T.813. Kết quả: Không có cuộc gọi đến, đi nào từ số điện thoại 0967.T.813. Tiến hành kiểm tra mục danh bạ điện thoại của T, số điện thoại 0967.T.813 được T lưu “…6nho”. T khai nhận: Số điện thoại 0967.T.813, T lưu trong danh bạ “…6nho” là của anh Hoàng Đình T, sinh năm 1970, nhà ở xóm Sang Vường, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Ngày 21/4/2023, T có sử dụng số điện thoại 0965.T.102 để liên lạc với số điện thoại 0967.T.813 của anh T trao đổi nội dung mua bán ma túy. Tuy nhiên, khi liên lạc giao dịch mua bán ma túy xong, T đã xóa toàn bộ dữ liệu các cuộc gọi đến và đi giữa thuê bao của T với số điện thoại 0967.T.813 của T.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh, có gắn sim số 0967.T.813, T khai chiều ngày 21/4/2023 trong khi đi chợ mua thức ăn, T đã làm rơi mất nên không giao nộp được cho Cơ quan điều tra.

Kiểm tra chi tiết lịch sử liên lạc điện thoại của thuê bao 0967.T.813 do Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội (Viettel) cung cấp: Ngày 21/4/2023 thuê bao 0967.T.813 có nhiều cuộc gọi đi, gọi đến tới số điện thoại 0965.T.102, T khẳng định cuộc gọi tới số điện thoại 0965.T.102 vào hồi 11 giờ 05 phút ngày 21/6/2023 chính là cuộc gọi mà T gọi đến cho T để hỏi mua ma túy và được T hẹn đến khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn để mua bán ma túy.

Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa Vũ Đình T và Hoàng Đình T. Kết quả, cả T và T đều khai nhận nội dung ngày 21/6/2023, T có bán ma túy cho T . Hành vi mua bán ma túy của T phù hợp với tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập.

Ngày 27/4/2023, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và đề nghị áp dụng biện pháp tạm giam đối với Vũ Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS. Quyết định khởi tố bị can, Lệnh tạm giam đối với Vũ Đình T của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn phê chuẩn để tiến hành điều tra theo quy định.

Quá trình điều tra, Vũ Đình T khai nhận diễn biến hành vi phạm tội và nguồn gốc số ma túy như sau:

Khoảng 11 giờ 05 phút ngày 21/4/2023, khi T đang đi bộ trên đường thuộc xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn thì T nhận được cuộc điện thoại từ số 0967.T.813 của Hoàng Đình T, (sinh năm 1970, thường trú xóm Sang Vường, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) gọi đến hỏi mua ma túy loại Heroine của T với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Do bản thân T đang có sẵn ma túy Heroine nên T đồng ý và hẹn T đến khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó, T san một phần ma túy đang có sẵn ra một mảnh giấy có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng. Một lúc sau, T đến khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu gặp T. Khi gặp nhau, T đưa cho T 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, T cầm tiền và đưa cho T 01 gói ma túy vừa được T san ra có đặc điểm như mô tả ở trên. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang ở khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu thì bị Công an xã Võ Miếu kiểm tra, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Gói ma túy bị thu giữ trong quá trình kiểm tra, Vũ Đình T khai nhận gói ma túy này T cất giữ với mục đích nếu ai hỏi mua thì T sẽ bán lấy số tiền 300.000 đồng nhưng chưa kịp bán thì bị Công an xã Võ Miếu kiểm tra, thu giữ.

Tiến hành test nhanh chất ma túy đối với Vũ Đình T và Hoàng Đình T đều cho kết quả dương tính với chất ma túy.

Tại Cơ quan điều tra Vũ Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Hoàng Đình T như đã nêu trên. T khai mục đích bán ma túy để kiếm lời tiêu sài cá nhân.

Tại bản cáo trạng số 44/CT -VKS ngày 01/8/2023 của Viện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ truy tố Vũ Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm q, Khoản 2, Điều 251 của Bộ luật hình sự . Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm Sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm q khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Phạt Vũ Đình T từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 21/4/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì giấy số 527/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ. Bì ghi: Trả lại 0,124 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định. Mặt sau của bì giấy có chữ ký của các thành phần liên quan và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ tại các mép dán kín và 01sim điện thoại số 0865.T.102 thu giữ của T.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 200.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, màu đen, đã qua sử dụng, thu giữ của T.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có ý kiến tranh luận cho rằng, khi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 nhưng Cáo trạng của Viện Kiểm Sát lại truy tố bị cáo theo điểm q Khoản 2 Điều 251 là bất lợi cho bị cáo.

Kiểm sát viên giải thích cho bị cáo biết, Bản án số 15/HSST ngày 10/3/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm và xử phạt bị cáo 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 28/6/2019, T đã chấp hành xong hình phạt. Căn cứ điểm d, khoản 2, Điều 70 Bộ luật hình sự thì bị cáo chưa được xóa án tích, do vậy lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm, Viện kiểm Sát truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm q Khoản 2 Điều 251 BLHS là đúng quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luật tiếp.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo cũng là nạn nhân của tệ nạn xã hội, nay bị cáo tuổi cũng đã cao, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội: Tại phiên tòa bị cáo Vũ Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người liên quan, người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp, phù hợp với bản kết luận giám định số 527/KL-KTHS ngày 24/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 11 giờ 05 phút ngày 21/4/2023 tại xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Vũ Đình T có hành vi bán trái phép ma túy cho Hoàng Đình T với giá 200.000 đồng và tàng trữ 0,239 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích để bán lấy tiền. Tại Bản án số 15/HSST ngày 10/3/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm và xử phạt bị cáo 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 28/6/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt. ngày 21/4/2023 bị cáo phạm tội mới. Căn cứ điểm d, khoản 2, Điều 70 Bộ luật hình sự thì bị cáo chưa được xóa án tích. Do vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 BLHS:

“Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy “1. ....

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

q) Tái phạm nguy hiểm”.

[3]. Nhận định về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Vũ Đình T là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi thực hiện là trái pháp luật, nhưng vì hám lời mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi trên của bị cáo là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần phải xử lý các bị cáo thật nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Xét nhân thân bị cáo thấy rằng: Bị cáo T là người nghiện ma túy, đã có tiền án về tội ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại phạm tội về ma túy Tại Cơ quan CSĐT và phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống của xã hội để bị cáo cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 điều 251 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Bị cáo là người nghiện ma túy là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hiện bị cáo đang sống cùng anh trai, bị cáo không có tài sản riêng, không giữ chức vụ gì. Do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về nguồn gốc ma túy, Vũ Đình T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 21/4/2023, T mua 01 gói ma túy của một người phụ nữ không quen biết với số tiền 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T đi xe khách vào khu vực xóm Trại, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn. Do T không biết họ tên , địa chỉ người phụ nữ bán ma túy cho T. Việc mua bán ma túy giữa T và đối tượng này không ai biết. Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn không có căn cứ để xác minh xử lý người này.

[7] Đối với Hoàng Đình T, ngày 21/4/2023 T đã có hành vi mua ma túy của Vũ Đình T với số tiền 200.000 đồng để sử dụng. Số ma túy T mua của T, T đã sử dụng hết, CQĐT không thu giữ được. Do vậy, không có căn cứ để xem xét hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với T, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã chuyển tài liệu cho Công an huyện Thanh Sơn để xem xét xử phạt vi phạm hành chính đối với Hoàng Đình T về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định là đúng pháp luật.

[8] Về vật chứng: Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, màu đen, đã qua sử dụng, bên trong gắn sim số 0865.T.102 tạm giữ của Vũ Đình T, đây là điện thoại T dùng liên lạc để bán ma túy cho T, cần tịch thu sung công quỹ và tiêu hủy chiếc sim.

Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của T, đây là tiền T bán ma túy cho Hoàng Đình T mà có nên tịch thu sung công quỹ.

Đối 01 (một) bì giấy số 527/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ. Bì ghi: Trả lại 0,124 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói hoàn trả lại sau giám định, đây là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

 Phạt: Vũ Đình T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 21/4/2023.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy gồm: 0,124 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói trả lại sau giám định đựng trong 01 (một) bì giấy số 527/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ; 01 chiếc sim điện thoại số 0865.T.102 Tịch thu sung công quỹ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, màu đen, đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Vũ Đình T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 54/2023/HS-ST

Số hiệu:54/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về