Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 515/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 515/2023/HS-PT NGÀY 01/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 326/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn Thành L, do bị cáo kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2023/HS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn Thành L, sinh năm 1992 tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Số 153/2 Trương Định, Phường 9, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị T; Chưa có vợ, con; Tiền án: Bản án số 111/2014/HSST ngày 29/8/2014 của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 23/01/2019; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2021 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn Tài, Văn phòng luật sư Mai Trung Tín thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – Có mặt;

Ngoài ra còn có các bị cáo: Phan Thị Ngọc M, Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Minh A, Phan Thị Ngọc P, Nguyễn Phước Nhựt M1 và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 13/10/2020, Công an bắt quả tang Phan Thị Ngọc P có hành vi cất giấu ma túy để bán cho người khác, thu giữ khối lượng 99,5610 gam Methamphetamine. Khám xét nơi ở của P, có mặt Phan Thị Ngọc M và Bùi Phan Thanh T, phát hiện trong túi vải của M có 02 gói, tổng khối lượng 2,7632 gam Methamphetamine và 01 viên nén, khối lượng 0,4139 gam MDMA; trong túi đeo của T có 02 gói, tổng khối lượng 2,3061 gam Methamphetamine. Khám xét nơi ở của T, có mặt Nguyễn Minh A và phát hiện Nguyễn Minh A dương tính với ma túy.

M và T khai số ma túy trên là của người tên L, Minh A cũng khai nhiều lần giúp L bán ma túy. Kết quả điều tra xác định L chính là Nguyễn Văn Thành L.

Ngày 02/3/2021, Công an bắt quả tang Nguyễn Phước Nhựt M1 điều khiển xe gắn máy có giấu ma túy để bán, thu giữ 25,2653 gam Methamphetamine. M1 khai đi giao ma túy cho L. Lúc 23 giờ 40 phút ngày 02/3/2021, khám xét nơi ở của Nguyễn Văn Thành L tại Phòng 703, nhà trọ số 54/7 Phổ Quang, Phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ trong hộc bàn 02 gói nylon chứa ma túy thể rắn, khối lượng 102,4855 gam Methamphetamine và 01 điện thoại di động hiệu Samsung. 01 giờ ngày 03/3/2021, tiếp tục khám xét nơi ở của Nguyễn Văn Thành L tại Phòng 001 nhà trọ số 5/21 Lê Quý Đôn, Phường 11, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ 01 gói ma túy thể rắn, khối lượng 30,9864 gam Ketamine.

Tất cả ma túy thu giữ đã được giám định tại Kết luận giám định số 1789/KLGĐ-H ngày 21/10/2020, số 1566/KLGĐ-H và số 1567/KLGĐ-H cùng ngày 11/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn Thành L khai nhận: Từ khoảng tháng 10/2020 đến tháng 3/2021, L mua ma túy của Tý Phát (không rõ lai lịch) nhiều lần, rồi cùng với Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Phước Nhựt M1, Nguyễn Minh A bán cho khách kiếm lời. Khách liên lạc với L để thỏa thuận giá cả và địa điểm rồi L đưa ma túy cho T, M1 đi giao cho khách và L trả công cho T, M1 theo lượng ma túy từng lần. Cụ thể:

Ngày 10/10/2020, L mua của Tý Phát 100 gam ma túy đá giá 26.000.000 đồng rồi đi thuê Phòng 203 khách sạn Minh Hoàng cất giấu. Khoảng 14 giờ 30 ngày 13/10/2020 thì Bùi Phan Thanh T và Nguyễn Minh A đến gặp L. T nói có người nữ tên M đặt mua 100 gam ma túy đá, L báo giá 30.500.000 đồng/100 gam ma túy và chỉ nơi cất giấu ma túy cho T lấy đi bán. Minh A chứng kiến toàn bộ sự việc. T mang ma túy đi thì Minh A ở lại Phòng 203 với L cho đến khoảng 18 giờ cùng ngày không thấy T mang tiền về nên L yêu cầu Minh A đến khách sạn Phước Tài gặp T để lấy tiền về cho L, chờ đến khoảng 21 giờ thì L điện cho T và Minh A nhưng không liên lạc được, nên L trả phòng ra về.

Khoảng đầu tháng 12/2020, L mua của Tý Phát 100 gam ma túy đá giá 24.000.000 đồng, L chia ra 01 gói 75 gam và 01 gói 25 gam rồi cất giấu tại Phòng trọ 001 nhà trọ số 5/21 Lê Quý Đôn. Ngày 15/12/2020 L đưa gói 25 gam cho M1 mang đi bán cho khách ở ngã tư đường Huỳnh Văn Bánh – Nguyễn Văn Trỗi giá 6.000.000 đồng, L trả công cho M1 200.000 đồng. Giữa tháng 02/2021, L lấy gói 75 gam chia thành 01 gói 25 gam và 01 gói 50 gam. L đưa gói 50 gam cho M1 đem bán cho khách ở khu vực đường Cửu Phú với giá 14.000.000 đồng, L trả công cho M1 300.000 đồng. Ngày 02/3/2021, L đưa gói 25 gam còn lại cho M1 đem bán giá 7.000.000 đồng, hứa sẽ cho M1 300.000 đồng, khi M1 đem ma túy đi bán thì bị bắt quả tang.

Khoảng ngày 25/02/2021, L mua của Tý Phát 100 gam ma túy đá giá 26.000.000 đồng và 30 gam Ketamine giá 13.000.000 đồng, mang về phòng 703 nhà trọ số 54/27 Phổ Quang, chia gói ma túy đá thành 02 gói cất giấu để bán, còn gói 30 gam Ketamine thì đem đến Phòng trọ 001 nhà số 5/21 Lê Quý Đôn cất giấu để bán thì bị khám xét thu giữ.

Tại Bản cáo trạng số 321/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 17/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Thành L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và còn truy tố Phan Thị Ngọc M, Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Minh A, Phan Thị Ngọc P, Nguyễn Phước Nhựt M1;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2023/HS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 39 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Thành L tù chung thân, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2021.

Phạt bổ sung bị cáo 30.000.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Phan Thị Ngọc M, Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Minh A, Phan Thị Ngọc P, Nguyễn Phước Nhựt M1; quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án dân sự và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/4/2023, bị cáo Nguyễn Văn Thành L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Bị cáo Nguyễn Văn Thành L khai nhận có thực hiện hành vi mua bán ma túy như Bản án sơ thẩm đã nêu và tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là không oan, nhưng xử phạt bị cáo tù chung thân là quá nặng. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt tù và giảm nhẹ tiền phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét tuy bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, nhưng khối lượng ma túy bị cáo phạm tội chỉ mới vượt ngưỡng định khung hình phạt một ít, nên hình phạt chung thân đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm giảm hình phạt cho bị cáo thành tù có thời hạn và miễn phạt bổ sung bằng tiền.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự; đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm; Về nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Thành L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đã xử phạt tù chung thân và phạt bổ sung bằng tiền là tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ gì mới, nên đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Thành L đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn Thành L phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo khác trong vụ án, lời khai của người làm chứng, Biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định từ khoảng tháng 10/2020 đến ngày 02/3/2021, bị cáo Nguyễn Văn Thành L nhiều lần mua ma túy đem về giao cho Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Phước Nhựt M1 đem bán, thì M1 bị bắt quả tang. Tổng khối lượng ma túy L phải chịu trách nhiệm hình sự là 232,3811 gam loại Methamphetamine và 30,9864 gam loại Ketamine. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Thành L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3] Ma túy là hiểm họa của nhân loại, vì chất ma túy vừa gây tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe, khánh kiệt về kinh tế, vừa làm băng hoại nhân cách, suy đồi đạo đức của những người sử dụng chúng, nên hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây tác động rất xấu đến trật tự, trị an ở địa phương, nên cần phải xử phạt nghiêm.

Bị cáo đã thành khẩn khai báo nên Bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ, nhưng bị cáo vừa mới chấp hành xong hình phạt 07 năm tù cũng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thì lại tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, phạm tội từ 02 lần trở lên là các tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và chứng tỏ bị cáo chưa biết ăn năn hối cải, cần phải xử phạt nghiêm. Bị cáo phạm tội với khối lượng ma túy là 232,3811 gam loại Methamphetamine và 30,9864 gam loại Ketamine, hơn gấp đôi định lượng định khung hình phạt, bị cáo có quá trình nhân thân xấu, nên Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo tù chung thân và phạt bổ sung bằng tiền là tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt gì mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và lời bào chữa của luật sư, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.

[4] Do bị bác kháng cáo, nên bị cáo Nguyễn Văn Thành L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Phan Thị Ngọc M, Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Minh A, Phan Thị Ngọc P, Nguyễn Phước Nhựt M1; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án dân sự không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Thành L; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2023/HS-ST ngày 31/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Thành L.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Các điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 39; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Thành L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Thành L tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/3/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo phải nộp 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) vào ngân sách nhà nước.

3. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Thành L phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng);

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Phan Thị Ngọc M, Bùi Phan Thanh T, Nguyễn Minh A, Phan Thị Ngọc P, Nguyễn Phước Nhựt M1; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án dân sự không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 515/2023/HS-PT

Số hiệu:515/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về