Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 505/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 505/2022/HS-PT NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

295/2022/TLPT-HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Hà Thị Thùy A. Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 132/2022/HS-ST ngày 15/4/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Hà Thị Thùy A; sinh ngày 10/6/1990; tại tỉnh Thanh Hóa; hộ khẩu thường trú: Khu phố S1, phường S2, thành phố S3, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Phòng 406, khách sạn Cupid số 02 Bis đường S4, phường P1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Hà Văn T1 và bà Hà Thị H1; có chồng đã ly hôn, có 01 con sinh năm 2012; tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 25/2019/HSST ngày 20/02/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Nhân thân: Bản án số 75/2014/HSST ngày 20/3/2014 bị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm 04 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (đã xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/01/2021 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo luật định: Luật sư Nguyễn Thị Kim A1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 07/01/2021, tại Phòng 406 khách sạn Cupid, số 02 Bis đường S4, phường P1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an Quận 1 kiểm tra phát hiện bắt quả tang Hà Thị Thùy A và Phạm Ngọc S có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán cho người khác. Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nylon màu đỏ bên trong có 01 túi xách màu nâu đựng 01 hộp giấy bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,6572 gam loại Methamphetamine (MA); 01 cục tinh thể không màu, có khối lượng 1,0830 gam loại Methamphetamine; 01 gói nylon bên trong có 05 gói nylon chứa tinh thể không màu, có tổng khối lượng 185,80 gam loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa 10 viên nén màu xanh, có tổng khối lượng 3,5761 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa 09 viên nén hình tròn màu tím, có tổng khối lượng 3,1168 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa 06 viên nén màu xanh và một số mảnh vụn màu xanh, có tổng khối lượng 2,4437 gam, 01 gói nylon chứa 10 viên nén màu xanh, có khối lượng 4,6229 gam, 01 gói nylon chứa 06 viên nén màu xanh lá, có khối lượng 2,3889 gam, 09 viên nén màu xanh dương, có khối lượng 3,6352 gam, 01 viên nén màu xanh, có khối lượng 0,3808 gam không tìm thấy ma túy; 01 gói nylon chứa 11 viên nén màu hồng, có khối lượng 4,3632 gam, loại Methamphetamine, Ketamine; 01 gói nylon chứa 90 viên nén màu hồng, có khối lượng 36,3775 gam loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine; 01 gói nylon chứa 01 viên nén hình tròn màu cam, có khối lượng 0,1752 gam, loại Nimetazepam; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, có khối lượng 0,6915g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa 15 viên nén màu xanh, có khối lượng 5,4041 gam, 01 gói nylon chứa 13 viên nén màu cam, có khối lượng 6,6237 gam, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu cam, có khối lượng 0,5090 gam, 01 gói nylon chứa 15 viên nén màu xám, có khối lượng 5,8745 gam không tìm thấy ma túy.

Tại thời điểm kiểm tra có Phạm Thị Hồng F là chị ruột của S nên tổ công tác mời về cơ quan Công an làm rõ. F khai nhận đã 02 lần bán ma túy cho A và S nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Thị Hồng F, về hành vi “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Quá trình điều tra, Hà Thị Thùy A khai nhận: Bản thân có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tháng 01/2020 sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương A tiếp tục sử dụng ma túy. Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, A nảy sinh ý định mua ma túy của Phạm Thị Hồng F và Nguyễn Thị Hồng T (đã bị khởi tố trong vụ án khác), X1, X2, X3 (không rõ lai lịch) đem về bán lẻ kiếm lời. Vào khoảng giữa năm 2020, A quen với Phạm Ngọc S và thuê phòng chung sống với nhau như vợ chồng. Để thuận lợi cho việc phân chia, cất giấu và mua bán trái phép ma túy, ngày 04/01/2021, A và S đến thuê phòng 402 khách sạn Cupid, số 02 Bis đường S4, phường P1, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Đến chiều ngày 06/01/2021, do phòng bị bẩn nên A xuống quầy tiếp tân làm thủ tục chuyển phòng khác rồi cùng S mang số ma túy từ phòng 402 S Phòng 406 để trên giường và ghế sopha, đến tối cùng ngày, Phạm Thị Hồng F đến tìm A và S để lấy tiền bán ma túy của A còn nợ và rủ cả hai cùng đi ăn tối, sau đó Hà Thị Thùy A, Phạm Ngọc S và Phạm Thị Hồng F cùng về lại phòng 406. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 07/01/2021, khi cả 03 đang ngồi trên giường trong phòng nói chuyện thì A phát hiện có Công an kiểm tra nên kêu S mang ma túy để trên giường giấu vào khu vực nhà vệ sinh nhưng bị phát hiện bắt quả tang số ma túy như đã nêu trên. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, A khai nhận mua của nhiều người cụ thể như sau:

- Từ khoảng tháng 10/2020, A thường hay vào các quán bar, vũ trường ở Quận 1 chơi nhằm mục đích để móc nối với các đối tượng sử dụng và mua bán thuốc lắc. Tại các tụ điểm này, A quen với X1, X2, X3 và X4 (không rõ lai lịch) là những người mua bán thuốc lắc. A thường hay mua thuốc lắc của những người này để sử dụng và bán lại cho người nghiện kiếm tiền lời, sau đó A mua của X1 23 viên thuốc lắc màu xanh, 09 viên thuốc lắc màu tím và 09 viên thuốc lắc màu xanh dương (tổng cộng 41 viên) loại thuốc lắc kém chất lượng với giá 100.000 đồng/viên với mục đích bán lại cho người nghiện giá 120.000 đồng/viên. Do thuốc lắc mua của X1 kém chất lượng, A tìm X2 để mua thuốc lắc đem về bán và cất giấu trong hộp giấy màu trắng thì bị thu giữ.

- Ngày 25/12/2020, A gọi điện thoại cho Phạm Thị Hồng F đặt mua 99 viên thuốc lắc màu cam có in hình đầu lâu với giá 9.900.000 đồng, F đặt dịch vụ giao hàng nhanh chuyển ma túy cho A. Đến ngày 30/12/2020, A đưa cho S 2.000.000 đồng và kêu đi gặp F để trả bớt tiền mua tX1 99 viên thuốc lắc, sau khi giao tiền xong, F tiếp tục đưa cho S 10 viên thuốc lắc màu xanh in hình con cú để S đem về đưa cho A bán. Do thuốc lắc của F đưa cho A kém chất lượng, ngày 03/01/2021 A lấy 85 viên thuốc lắc màu cam có in hình đầu lâu đem thỏa thuận đổi cho X3 (không rõ lai lịch) để lấy 15 viên thuốc lắc màu xanh, 15 viên thuốc lắc màu xám và 01 viên thuốc lắc hình tròn màu cam (tất cả không có in hình logo) đem về cất giữ trong hộp vải màu xanh nhằm mục đích để bán lại nhưng chưa kịp thì bị thu giữ;

- Trong khoảng thời gian này, do khách có nhu cầu mua ma túy đá sử dụng nên ngày 05/01/2021, A gọi điện thoại cho Nguyễn Thị Hồng T, đặt mua tX1 200 gam ma túy đá (Methamphetamine) với giá 28.000.000 đồng/100 gam, Thu đồng ý và đặt dịch vụ giao hàng nhanh chuyển ma túy đến khách sạn cho A, sau khi nhận được 200 gam ma túy đá cùng 01 gói Ketamine, A cất giấu ma túy đá trong hộp nhựa màu cam và dự định bán lại cho người nghiện với giá 30.000.000 đồng/100gam nhưng chưa bán được thì bị thu giữ, riêng gói Ketamine là hàng mẫu Thu gửi A để chào bán cho khách nhưng chưa bán được bị thu giữ (tuy nhiên Thu không thừa nhận bán ma túy cho A).

Số tiền thu lợi từ hoạt động mua bán ma túy mà có, A và S dùng để trả tiền thuê phòng, sinh hoạt hàng ngày và mua ma túy sử dụng hết.

Đối với Phạm Thị Hồng F (là chị ruột của Phạm Ngọc S) là người sử dụng ma túy từ năm 2013 cho đến lúc bị bắt giữ. Năm 2013, F bị Công an Quận 10 lập hồ sơ đưa cai nghiện bắt buộc, sau khi chấp hành xong về địa phương lại tiếp tục sử dụng ma túy. Khi biết A vừa ra trại nhưng vẫn tiếp tục sử dụng và mua bán ma túy, F nói với A bản thân có nhiều mối quan hệ với người nghiện ma túy để F hỏi tìm mua ma túy kém chất lượng giúp cho A bán lẻ kiếm lời, A đồng ý. Sau đó F đã 02 lần mua ma túy bán lại cho A cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 25/12/2020, sau khi A gọi điện thoại cho F đặt mua thuốc lắc, F gọi điện thoại cho người tên Bi (không rõ lai lịch, ở khu vực quận Tân Phú) mua 99 viên thuốc lắc với giá 80.000 đồng/viên, khi mua được thuốc lắc F đặt dịch vụ giao hàng nhanh chuyển thuốc lắc cho A để hưởng lợi 20.000 đồng/viên.

- Lần thứ hai: Vào ngày 30/12/2020, S gọi điện thoại cho F để trả nợ 2.000.000 đồng tiền bán ma túy cho A nêu trên, sau khi nhận được tiền F tiếp tục đưa thêm cho S 10 viên thuốc lắc màu xanh in hình con cú để S đem về đưa cho A bán, số thuốc lắc này do F mua của Bi để bán cho A.

Đối với Nguyễn Thị Hồng T, ngoài lời khai nhận của Hà Thị Thùy A về việc mua 200 gam ma túy đá của Thu không còn chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý trong vụ án này. Hiện Thu bị khởi tố về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” trong vụ án khác.

Đối với các đối tượng tên X1, X2, X3, X4 và Bi do A, S, F khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, truy bắt để xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 447/CT-VKS-P1 ngày 01/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Hà Thị Thùy A, Phạm Ngọc S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Phạm Thị Hồng F về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 132/2022/HS-ST ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hà Thị Thùy A: 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Hà Thị Thùy A 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt của Phạm Ngọc S, Phạm Thị Hồng F, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/4/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 25/QĐ-VKS-P1 về việc kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên theo hướng tăng nặng mức hình phạt từ 20 năm tù lên tù chung thân đối với bị cáo Hà Thị Thùy A.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử mức hình phạt 20 năm tù đối với bị cáo Hà Thị Thùy A là chưa tương xứng so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, bị cáo A phạm tội với khối lượng ma túy lớn (189,5402g MA, 6,6929g MDMA, 0,6915g Ketamine, 0,1752g Minetazepam, 4,3632g MA và Ketamine, 3 6,3775g MA, MDMA và Ketamine). Hơn nữa, bị cáo có vai trò chủ mưu, nhân thân xấu đã bị xét xử nhiều lần về hành vi liên quan đến ma túy và có 01 tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo đã được giáo dục nhiều lần nhưng vẫn tái phạm. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tăng hình phạt của bị cáo Hà Thị Thùy A lên mức án tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày:

Thống nhất về tội danh; trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị cáo luôn thành khẩn khai báo, bị cáo ngoài 30 tuổi, có con nhỏ, tuổi đời kết hôn chưa đầy 20 tuổi; bị cáo còn trẻ, mức án chung thân rất dài. Đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy” bị cáo đã được xóa án tích, còn tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” sắp được xóa án tích, nên không coi bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Hà Thị Thùy A đồng ý với ý kiến của Luật sư bào chữa, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hà Thị Thùy A và Phạm Ngọc S chung sống với nhau như vợ chồng và thuê khách sạn Cupid, Quận 1 để cùng nhau mua bán ma túy. Từ tháng 10/2020 cho đến khi bị bắt, Hà Thị Thùy A đã cùng Phạm Ngọc S nhiều lần mua ma túy của nhiều đối tượng không rõ lai lịch trong đó có Phạm Thị Hồng F đem về phân chia bán lại cho người khác để thu lợi, số ma túy còn lại cất giấu tại phòng 406, khách sạn Cupid, số 02 Bis đường S4, phường P1, Quận 1 vào ngày 07/01/2021 chưa kịp tiêu thụ thì bị bắt quả tang số ma túy gồm: 189,5402g Methaphetamine; 6,6929g MDMA; 0,6915g Ketamine; 0,1752g Nimetazepam;

4,3632g Methaphetamine và Ketamine; 36,3775g Methaphetamine, MDMA và Ketamine.

Hành vi nêu trên của bị cáo Hà Thị Thùy A đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhận dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Hà Thị Thùy A.

Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện tình tiết tăng nặng như bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tình tiết giảm nhẹ là bị cáo thành khẩn khai báo, để từ đó áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 và Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo A là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo Hà Thị Thùy A có nhân thân xấu, một tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bản thân cũng đã bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Sau khi ra tù lại tiếp tục thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” thể hiện bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Bị cáo đã mua bán nhiều lần trong một thời gian dài, số lượng ma túy khi bắt thu giữ được của bị cáo lớn, gồm nhiều loại ma túy khác nhau nên mức án 20 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, cần có một mức hình phạt nghiêm hơn đối với bị cáo để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và cũng là bài học răn đe cho những đối tượng khác.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tăng năng hình phạt đối với bị cáo Hà Thị Thùy A như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa.

[3] Về án phí:

Do bị cáo không kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

1/ Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án sơ thẩm.

2/ Xử phạt bị cáo Hà Thị Thùy A tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/01/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Hà Thị Thùy A 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Hà Thị Thùy A theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

3/ Về án phí: Bị cáo Hà Thị Thùy A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 505/2022/HS-PT

Số hiệu:505/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về