Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 50/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 50/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/3/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2024/TLST-HS, ngày 26/02/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2024/QĐXXST-HS ngày 15/3/2024 đối với bị cáo:

Nùng Văn H -Sinh ngày 28/12/1993 tại huyện Th U, tỉnh L Ch.

Nơi cư trú: Bản Ph C, xã M C, huyện Th U, tỉnh L Ch; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nùng Văn T – sinh năm 1966; Con bà: Thào Thị Th - sinh năm 1972; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ 16 giờ 00 phút ngày 01/10/2023, tạm giam từ ngày 10/10/2023. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Th U. ( mặt) - Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Mạnh H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu.(có mặt) - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. anh Thào Văn H – sinh năm 1988.

2. anh Cầm Văn Ư – sinh năm 1986.

Đều trú tại: Bản C N, xã M C, huyện Th U, tỉnh L Ch.

3. anh Lê Văn T – sinh năm 1989.

Trú tại: Bản L M, xã M C, huyện Th U, tỉnh L Ch.

4. anh Hoàng Văn K – sinh năm 1993.

Trú tại: Bản Ph C, xã M C, huyện Th U, tỉnh L Ch.

( đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 20 phút ngày 01/10/2023, tại Bản Ph C, xã M C, huyện Th U, tỉnh L Ch, Công an huyện Than Uyên phát hiện, bắt quả tang Nùng Văn H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 02 cục nhỏ Heroine và 06 gói Heroine có tổng khối lượng 0,39 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nùng Văn H khai nhận: khoảng 19 giờ một ngày trong tháng 8 năm 2023, Nùng Văn H lên bản N Th, xã Ph Th, huyện Th U, tỉnh Lai Châu mua 01 gói Heroine của một người phụ nữ không rõ lai lịch với giá 200.000 đồng. Sau đó, H mang Heroine về nhà mình tại bản Ph C, xã M C, huyện Th U chia thành nhiều gói nhỏ, mục đích để bán kiếm lời. Buổi sáng một ngày trong tháng 8 năm 2023, Nùng Văn H đang ở nhà mình tại bản Ph C, xã M C, huyện Th U thì có Thào Văn H, sinh năm 1988, trú tại bản C N, xã M C, huyện Th U đến hỏi mua Heroine. H đã cầm cố 01 giấy phép lái xe mô tô của H mua của H 01 gói Heroine với giá thỏa thuận 100.000 đồng. Buổi chiều một ngày trong tháng 8 năm 2023, Nùng Văn H đang ở trong bản Ph C, xã M C, huyện Th U thì có Cầm Văn Ư, sinh năm 1986, trú tại bản C N, xã M C, huyện Th U đến cầm cố 01 giấy phép lái xe mô tô của Ư mua của H 01 gói Heroine với giá thỏa thuận 50.000 đồng. Buổi sáng một ngày trong tháng 8 năm 2023, khi H đang ở nhà mình thì có Lê Văn T, sinh năm 1989, trú tại bản L M, xã M C, huyện Th U đến cầm cố 01 giấy phép lái xe ô tô của T mua 01 gói Heroine của H với giá 100.000 đồng. Buổi trưa một ngày trong tháng 8 năm 2023, H đang ở nhà mình thì có Hoàng Văn K, sinh năm 1993 (trú cùng bản với H) đến cầm cố 01 căn cước công dân của K mua của Hạnh 01 gói Heroine với giá thỏa thuận 100.000 đồng.

Đến ngày 01/10/2023 tại bản Ph C, xã M C, huyện Th U, Nùng Văn H lấy Heroine ra chuẩn bị sử dụng thì bị Công an xã M C, huyện Th U phát hiện, bắt quả tang hồi 14 giờ 20 phút cùng ngày. Vật chứng thu giữ trên đệm ngủ của Nùng Văn H 02 cục nhỏ Heroine và 01 gói nilon màu trắng bên trong có 06 gói Heroine đều được gói bằng mảnh giấy màu trắng; số tiền 280.000 đồng; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Thào Văn H; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Cầm Văn Ư; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn K; 01 giấy phép lái xe ô tô mang tên Lê Văn T.

Căn cứ lời khai của Nùng Văn H, Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, lấy lời khai đối với: Hoàng Văn K, Thào Văn H, Lê Văn T, Cầm Văn Ư. Tại Cơ quan điều tra: K, H, T, Ư khai nhận có mua Heroine của Nùng Văn H. Lời khai của: K, H, T, Ư hoàn toàn phù hợp với lời khai của Nùng Văn H cùng các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận giám định tư pháp số 122 ngày 01/10/2023 của người giám định theo vụ việc Công an huyện Than Uyên và kết luận giám định số 1055 ngày 03/10/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Nùng Văn H có tổng khối lượng 0,39 gam; là ma túy, loại: Heroine (Heroin).

Tại bản kết luận giám định số 1057 ngày 04/10/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Số tiền 280.000 đồng thu giữ của Nùng Văn H là tiền thật.

Vật chứng của vụ án gồm: 0,39 gam Heroine, Cơ quan điều tra đã trích gửi giám định 0,10 gam, còn lại: 0,29 gam; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Thào Văn H; 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Cầm Văn Ư; 01 giấy phép lái xe ô tô mang tên Lê Văn T; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn K; 06 mảnh giấy màu trắng; 01 mảnh nilon màu trắng; 02 vỏ bì niêm phong ban đầu; số tiền 280.000 đồng, hiện đang được bảo quản theo quy định.

Tại bản cáo trạng số:16/CT –VKS, ngày 26/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đã truy tố bị cáo Nùng Văn H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Than Uyên trình bày lời luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nùng Văn H phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Đề nghị HĐXX Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nùng Văn H từ 4 năm đến 4 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng các hình phạt bổ sung theo quy định của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 0,29 gam Heroine; 01 phong bì bên trong đựng 06 mảnh giấy màu trắng; 01 mảnh ni lon màu trắng; 02 vỏ bì niêm phong ban đầu. Trả lại cho bị cáo số tiền 280.000đồng; Trả lại cho những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan số giấy phép lái xe và căn cước công dân.

Về án phí: Đề nghị miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nùng Văn H.

Bị cáo Nùng Văn H không có ý kiến tranh luận gì đối với quan điểm của vị đại diện Kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo cho rằng: Về quy trình tố tụng cũng như căn cứ pháp luật mà vị đại diện Kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo, người bào chữa hoàn toàn nhất trí. Tuy nhiên mức hình phạt Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là quá nghiêm khắc vì: Bị cáo là người dân tộc, sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, chưa có tiền án, tiền sự, sự nhận thức về pháp luật và xã hội còn hạn chế, hơn nữa bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt mà vị đại diện Kiểm sát đã đề nghị.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo được sớm trở về hòa nhập với gia đình, xã hội, tự sửa chữa sai lầm để làm người có ích và xin miễn toàn bộ án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người bào chữa và bị cáo cũng như người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trong tháng 8 năm 2023, tại bản N Th, xã Ph Th, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, Nùng Văn H đã mua trái phép 01 gói Heroine của một người phụ nữ không rõ lai lịch với số tiền 200.000 đồng. Sau đó, Nùng Văn H mang Heroine về nhà chia thành nhiều gói nhỏ, mục đích để bán kiếm lời. Trong tháng 8 năm 2023, tại bản Ph C, xã M C, huyện Than Uyên, vào các ngày khác nhau, Nùng Văn H đã 04 lần thực hiện hành vi bán trái phép Heroine bằng hình thức nhận cầm cố giấy phép lái xe mô tô và căn cước công dân, mỗi lần bán 01 gói Heroine cho lần lượt những người nghiện gồm:

Thào Văn H, Cầm Văn Ư, Lê Văn T, Hoàng Văn K lấy tổng số tiền thỏa thuận là 350.000 đồng.

Bắt quả tang và khám xét khẩn cấp nơi ở của Nùng Văn H, Cơ quan điều tra thu giữ 02 cục nhỏ Heroine và 06 gói Heroine có tổng khối lượng 0,39 gam; số tiền 280.000 đồng và 03 giấy phép lái xe mô tô mang tên Thào Văn H, Cầm Văn Ư, Lê Văn T; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn K là những giấy tờ Nùng Văn H đã nhận cầm cố bán trái phép Heroine.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nùng Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Như vậy nội dung bản cáo trạng truy tố, căn cứ pháp luật, mức án đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội: Bị cáo chính là nạn nhân của ma túy, nên hiểu hơn ai hết: Heroine là chất ma túy gây nghiện, hủy hoại sức khỏe con người và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, nên Nhà nước nghiêm cấm và xử phạt nghiêm khắc. Nhưng để có ma túy sử dụng và bán kiếm lời. Trong tháng 8 năm 2023 bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm pháp luật cố ý thực hiện hành vi mua trái phép 01 gói Heroine với giá 200.000đồng nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Nên cần phải xử lý thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Trong tháng 8 năm 2023, tại bản Ph C, xã M C, huyện Than Uyên, vào các ngày khác nhau, Nùng Văn H đã 04 lần thực hiện hành vi bán trái phép Heroine bằng hình thức nhận cầm cố giấy phép lái xe mô tô và căn cước công dân, mỗi lần bán 01 gói Heroine cho lần lượt những người nghiện gồm: Thào Văn H, Cầm Văn Ư, Lê Văn T, Hoàng Văn K lấy tổng số tiền thỏa thuận là 350.000 đồng. Nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Song quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đều thành khẩn khai báo, tự thú nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện, bị cáo là người dân tộc sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc diện cận nghèo, bị cáo có ông, bà ngoại đều là người có công với cách mạng. Nên cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cho bị cáo được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự là phù hợp. Đây cũng là căn cứ, lý do để chấp nhận phần nào lời đề nghị của người bào chữa cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, theo quy định của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung. Nhưng theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy gia đình bị cáo đang khó khăn, bị cáo không đảm nhiệm chức vụ nghề nghiệp gì, do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án gồm: 0,29 gam Heroine; 01 phong bì bên trong đựng 06 mảnh giấy màu trắng; 01 mảnh ni lon màu trắng; 02 vỏ bì niêm phong ban đầu. Xét thấy số vật chứng này là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 280.000đồng. Xét thấy đây là tiền do bị cáo bán chất ma túy cho Thào Văn Th và Lò Văn Th. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện tại Thào Văn Th và Lò Văn Th không có mặt tại địa phương, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau. Do vậy cần trả lại cho bị cáo Nùng Văn H số tiền này.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của: Hoàng Văn K, Thào Văn H, Lê Văn T, Cầm Văn Ư, Công an huyện Than Uyên đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là đúng quy định, đồng thời giấy phép lái xe mô tô, căn cước công dân mà những người này cầm cố cho bị cáo cũng cần trả lại.

Về nguồn gốc Heroine, các bị cáo khai mua của một người không rõ lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nùng Văn H là người dân tộc sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc diện cận nghèo và tại phiên tòa bị cáo xin miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm, nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Khoản 2 điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135;136;331;333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nùng Văn H phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nùng Văn H 04 ( bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 01/10/2023.

3. Về vật chứng:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,29 gam Heroine; 01 mảnh ni lon màu trắng, 06 mảnh giấy màu trắng; 02 vỏ bì niêm phong ban đầu.

- Tuyên trả lại cho bị cáo Nùng Văn H số tiền 280.000đồng (hai trăm tám mươi ngàn đồng).

- Tuyên trả lại cho Thào văn H; Cầm Văn Ư; Lê Văn T giấy phép lái xe mô tô có số hiệu và tên tương ứng. Trả lại cho Hoàng Văn K 01 căn cước công dân.

(Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan CSĐT Công an huyện Than Uyên và Chi cục thi hành án dân sự huyện Than Uyên lập ngày 06/3/2024 ).

4. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nùng Văn H.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 50/2024/HS-ST

Số hiệu:50/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về